ĐẶT VẤN ĐỀ - ORL-HNS



DANH MỤC VIẾT TẮT

- VA : Amidan vòm

: Végétation Adenoides

ĐẶT VẤN ĐỀ

Amidan vòm là một cấu trúc lympho ở vòm họng, là một trong 6 cấu trúc lympho của vòng bạch huyết Waldeyer của ngã tư hầu họng, thường được gọi là VA. Viêm amidan vòm là một trong những bệnh lý thường gặp ở lứa tuổi nhà trẻ mẫu giáo (1 – 6) tuổi. Mô lympho vùng mũi họng có ở trẻ sơ sinh ngay từ lúc chào đời, phát triển tối đa trong thời kỳ 1 - 6 tuổi [4]. Sau đó nhỏ dần và đến tuổi dậy thì nó teo đi. Amidan vòm giúp trẻ tạo kháng thể qua các lần viêm nhiễm, tuy nhiên sau nhiều lần viêm nhiễm amdan vòm hết dần vai trò miễn nhiễm và nếu viêm trở lại có thể trở thành ổ chứa vi khuẩn. Khi cơ thể giảm sức đề kháng vi khuẩn sẽ bùng phát gây viêm cấp hoặc biến chứng. Ngoài ra amidan vòm quá phát cũng gây nên nhiều biến chứng khác như ngạt mũi, viêm mũi họng, viêm tai giữa … [1].

Viêm amidan vòm là một bệnh còn phổ biến ở Việt Nam và Trên thế giới. Tỷ lệ viêm amidan vòm ở nước ta là khoảng 30% trong tổng số bệnh tai mũi họng ở trẻ em dưới 10 tuổi [2], ở tỉnh Dak Lak tỷ lệ viêm amidan vòm là 8,35% [11], ở Pháp 25%, ở Tiệp Khắc 12%, Đức 17% (trích theo [21]).

Viêm amidan vòm tuy là một bệnh rất phổ biến và thường gặp tại các phòng khám nhi và tai mũi họng, có thể gây nhiều biến chứng lên các cơ quan khác và ảnh hưởng đến sự phát triển về tinh thần, thể chất nếu không được điều trị kịp thời, nhưng vấn đề chẩn đoán ở nhiều nơi còn chủ yếu dựa vào các hỏi bệnh và dụng cụ khám tai mũi họng thông thường. Hiện nay, với sự phát triển của phương tiện nội soi tai mũi họng và kỹ thuật khám amidan vòm bằng nội soi, cho một chẩn đoán chắc chắn về amidan vòm.

Về phương diện điều trị viêm amidan vòm bằng phẫu thuật nạo amidan vòm, với sự tiến bộ về trang thiết bị và kỹ thuật hiện nay chúng ta có thể điều trị tốt, tránh được biến chứng hiện tại và về lâu dài cho bệnh nhân. Tuy nhiên cũng như vấn đề chẩn đoán ở nhiều cơ sở còn nạo amidan vòm bằng gây tê còn gọi là nạo mù, phẫu thuật viên không thể kiểm soát được sau phẫu thuật có sạch amidan vòm hay không và chưa có đánh giá hiệu quả của phẫu thuật.

Xuất phát từ nhu cầu cấp thiết phải giải quyết những vấn đề nêu trên và tình hình thực tế của khoa chúng tôi hoàn toàn có khả năng giải quyết những vấn đề đó. Chúng tôi thực hiện đề tài: “Nghiên cứu đặc điểm lâm sàng, hình ảnh nội soi của viêm Amidan vòm và đánh giá kết quả phẫu thuật nạo amidan vòm tại bệnh viện Đa Khoa Thành Phố Buôn Ma Thuột năm 2010” nhằm hai mục tiêu:

- Nghiên cứu đặc điểm lâm sàng và hình ảnh nội soi của viêm Amidan vòm.

- Đánh giá kết quả phẫu thuật nạo Amidan vòm tại Bệnh Viện Đa Khoa Thành Phố Buôn Ma Thuột.

Chương 1

TỔNG QUAN TÀI LIỆU

1.1. SƠ LƯỢC VỀ LỊCH SỬ

VA (hay amidan vòm) là từ viết tắt của từ tiếng pháp Végétation Adenoides, nó thuộc vòng bạch huyết Waldeyer của vùng hầu họng, do Heinrich Wilhelm Gottfried von Waldeyer mô tả.

Heinrich Wilhelm Gottfried von Waldeyer (1836 - 1921), là một nhà giải phẫu học người Đức. Khi ở cương vị là giám đốc ngành Giải Phẫu Học tại Berlin trong hơn 33 năm, ông đã nổi tiếng khắp nơi như là một giáo sư về giải phẫu học và mô học. Vòng tân bào Waldeyer được ông mô tả vào năm 1884.

Về lịch sử khám nội soi, việc mô tả khám nội soi sớm nhất từ trường phái Kos do Hippocrates cầm đầu (460-375 TCN). Ông đã mô tả một dụng cụ được dùng để khám trực tràng gần giống với cái ta đang dùng hiện tại. Và còn một dụng cụ 2 van được tìm thấy trong kho tàng của thành Pompeii, bị vùi chôn từ năm 70 SCN, hiện nay còn được chưng bày tại viện Rizzoli, Bologna.

Bản luận thuyết Niddah trong Kinh Thánh Babylone được viết vào năm 500 SCN, cũng có tả mội dụng cụ làm bằng đồng ở đầu có gắn gỗ để đưa vào âm đạo dể dàng, dùng để quan sát cổ tử cung

Sau đó nhiều bác sĩ đã sử dụng nội soi để nhìn vào khoang mũi và miệng.

Các tiến bộ đạt được trong chẩn đoán và điều trị bệnh lý mũi xoang thông qua kỹ thuật nội soi ngày càng được áp dụng rộng rãi. Cùng với việc mong muốn giới thiệu kỹ thuật này trong việc khám chữa bệnh, đã thúc đẩy việc trình bày những nét cơ bản của kỹ thuật nội soi cùng với những ứng dụng của chúng trong ngành Tai mũi họng.

Thiết bị mà chúng ta đang sử dụng ngày nay đã trải qua rất nhiều cải tiến song hành với sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật. Thiết bị gồm 3 phần chính:

- Ống kính quang học có độ phóng đại 20-30 lần.

- Nguồn sáng Xenon hoặc Halogen.

- Camera truyền hình ảnh trực tiếp lên màn hình tivi.

Ở nước ta, nội soi mũi xoang được áp dụng 6 - 7 năm gần đây, tuy nhiên chúng vẫn còn giới hạn ở các thành phố lớn. Tại thành phố Hồ Chí Minh, nội soi mũi xoang có đầu tiên ở Trung tâm Tai mũi họng, kế đến là các bệnh viện lớn khác trong thành phố.

Ngày nay, khám nội soi là phương tiện phổ biến ở nhiều trung tâm, và khám nội soi vòm để chẩn đoán VA ngày càng được sử dụng nhiều, đã giúp cho chẩn đoán và điều trị VA ở trẻ ngày càng tốt hơn.

Phẫu thuật nạo VA, được thực hiện lần đầu tiên vào cuối năm 1800 khi Willhelm Meyer người Đan Mạch, đề xuất rằng VA gây nên các triệu chứng về mũi và nghe kém. Phẫu thuật cắt amidan và nạo VA đã được thực hiện thường xuyên cùng nhau bắt đầu ở đầu của thập niên 1900, khi amidan và VA được coi là những ổ nhiễm trùng gây ra nhiều bệnh khác. Phẫu thuật cắt amidan và nạo VA được coi là một điều trị cho chứng biếng ăn, chậm phát triển tâm thần hoặc đơn giản chỉ được thực hiện để thúc đẩy sức khỏe tốt. Và cách điều trị này, như đã trở thành phổ biến đối với học sinh tuổi đi học vào đầu những năm 1900 [35].

Trong những thập niên 1930 và 1940, việc sử dụng rộng rãi phẫu thuật nạo VA và cắt amidan được tranh cãi, vì sự phát triển của kháng sinh đã giúp điều trị tốt viêm amidan và VA. Nhiều công trình nghiên cứu cho thấy phẫu thuật cắt aimdan và nạo VA cùng lúc là không hiệu quả, đã được công nhận. Tuy nhiên trong suốt thế kỷ 20, trong phẫu thuật cắt amidan, phẫu thuật viên thường thực hiện nạo VA kèm theo. Mặc dù hơn 50 năm, nghiên cứu vẫn còn nhiều tranh cãi về phẫu thuật nạo VA [35].

Ở nước ta Nhan Trừng Sơn là người sử dụng nội soi trong nạo VA đầu tiên tại Thành Phố Hồ Chí Minh [6] .

Một số nghiên cứu liên quan:

- Đỗ Đức Thọ, Nguyễn Tiến Dũng (2002 - 2009), nghiên cứu phẫu thuật nạo VA nội soi cho 137 ca, tại Bệnh Viện Tỉnh Khánh Hòa, kết quả sau mổ cho thấy có sự cải thiện đáng kể các triệu chứng và chất lượng ngủ [22].

- Trần Tuấn Anh (2006 – 2009), nghiên cứu sử dụng kỹ thuật coblation trong phẫu thuật cắt amidan và nạo VA [23].

- Takahashi H, Honjo I, Fujita A, Kurata K (1997), nghiên cứu kết quả của nạo VA đối với viêm xoang của 78 trẻ từ 5- 7 tuổi, theo dõi sau mổ trong thời gian 6 tháng. Ghi nhận có sự giảm nhiễm trùng và viêm nhiễm [46].

- Ribens S.S., Rosana C., Jeferson S.D (2005), khám 368 trẻ tuổi đến trường ở Brazine, cho kết quả 50,6% VA quá phát độ I, 35,1% độ II và 14,3% độ III [43].

- Jerome Lim, Michael C McKean (2008) nghiên cứu phẫu thuật Adenotonsillectomy trong hội chứng ngừng thở do tắc nghẽn ở trẻ em [32].

- Maaike TA van den Aardweg, Anne GM Schilder (2009) nghiên cứu phẫu thuật nạo VA ở trẻ em có triệu chứng viêm mũi tái phát hoặc mãn tính. Qua nghiên cứu các tác giả thấy chưa có tính chắc chắn về hiệu quả của phẫu thuật nạo VA trong điều trị cho trẻ em viêm mũi tái phát hoặc mạn tính. Và đề nghị cần có những nghiên cứu để khẳng định [37].

- Saxby AJ, Chappel CA (2009) nghiên cứu VA tồn dư sau phẫu thuật nạo VA và vai trò của nội soi vòm mũi họng trong phẫu thuật nạo VA. Cho thấy có một tỷ lệ lớn VA còn sót sau nạo VA và sử dụng nội soi vòm mũi họng cho phép phẫu thuật dễ dàng và hiệu quả hơn [44].

1.2. SƠ LƯỢC VỀ GIẢI PHẪU VÀ SINH LÝ

1.2.1. SƠ LƯỢC GIẢI PHẪU

VA là một cấu trúc lympho thuộc vòng bạch huyết Waldeyer. VA nằm ở vòm mũi họng, thuộc phần họng mũi. Vì vậy trước khi trình bày về giải phẫu VA tôi xin trình bày sơ lược về họng mũi và vòng bạch huyết Waldeyer.

Họng là ngã tư của đường hô hấp và đường tiêu hóa. Họng tạo bởi một ống xơ cơ, đi từ nền sọ tới bờ dưới sụn nhẫn (ngang mức đốt sống cổ C6). Ở đây họng nối tiếp với thực quản.

Họng gồm 3 phần: họng mũi, họng miệng và họng thanh quản.

1.2.1.1. Họng mũi

Họng mũi còn gọi là tỵ hầu, nằm dưới nền sọ, trên khẩu cái mềm, ở phía sau lỗ mũi sau, được giới hạn bởi các thành:

- Thành trước là cửa mũi sau.

- Thành bên: bắt đầu từ thành bên cửa mũi sau cho tới thành sau của họng mũi, thành bên gồm:

+ Lỗ hầu vòi tai.

+ Gờ vòi là bờ sau của lỗ hầu vòi tai do sụn vòi tai đẩy vào.

+ Gờ cơ nâng là bờ dưới của lỗ hầu vòi tai do cơ căng màng khẩu cái đội lên tạo thành.

+ Nếp vòi khẩu cái là bờ trước của lỗ hầu vòi tai.

+ Quanh lỗ hầu vòi tai có nhiều mô bạch huyết tạo thành Amidan vòi.

+ Phía sau lỗ hầu vòi tai là một ngách dọc, gọi là ngách hầu, phía trên ngách hầu, sau gờ vòi là hố Rosenmuller.

+ Nếp vòi hầu nằm phía sau dưới lỗ hầu vòi tai, do cơ cùng tên đội lên.

- Thành trên: là vòm hầu, nằm bên dưới thân xương bướm và phần nền xương chẩm. Ở đây, có nhiều mô bạch huyết kéo dài đến thành sau chính là Amidan vòm.

- Thành sau: là phần niêm mạc trải từ giữa phần nền xương chẩm đến cung đốt đội [14, 36, 47].

[pic]

Hình 1 : Các phần của họng (Nguồn trích theo Lê Hữu Linh [7])

[pic]

Hình 2: Hình họng mũi (tỵ hầu) nhìn qua nội soi

(Nguồn trích theo Lê Hữu Linh [7])

1.2.1.2. Vòng bạch huyết Waldeyer

Heinrich von Waldeyer là nhà giải phẫu học người Đức, người đầu tiên mô tả một cách hệ thống các khối lympho ở thành sau họng mũi và họng miệng, cùng với một số khối mô lympho khác liên kết với nhau tạo thành vòng lympho khép kín mang tên ông (vòng bạch huyết Waldeyer).

Vòng bạch huyết Waldeyer theo mô tả kinh điển có 6 khối Amidan:

- Amidan vòm (còn gọi là amidan họng/hạnh nhân hầu): chỉ có 1 khối nằm ở vòm họng và có thể phát triển theo thành sau họng mũi.

- Amidan vòi (hạnh nhân vòi) : gồm 2 amidan, nằm ở hai bên phải và trái, quanh lỗ hầu vòi tai trong hố Rosenmüller.

- Amidan khẩu cái (hạnh nhân khẩu cái): gồm có 2 amidan, nằm hai bên phải và trái, trong hố amidan của thành bên họng (giữa trụ trước và trụ sau Amidan)

- Amidan lưỡi (hạnh nhân lưỡi): chỉ có 1 khối, nằm ở đáy lưỡi.

Ngoài ra còn có một số đám lympho ít thấy hơn. Đó là mô lympho nhỏ nằm rải rác ở thành sau, bên họng mũi và họng miệng và những đám lympho rải rác ở băng thanh thất

Vòng Waldeyer được hình thành trong thai kỳ và sau khi sinh nó đã phát triển đầy đủ. Các khối amidan phát triển nhanh về khối lượng từ lúc 1 - 2 tuổi và đỉnh cao của phát triển trong thời gian 3 - 7 tuổi, sau đó nhỏ teo nhỏ dần [3]

[pic]

Hình 3: vòng bạch huyết Waldeyer

(nguồn )

1: amidan vòm; 2: amidan vòi; 3: amidan khẩu cái; 4: amidan lưỡi

1.2.1.2. Giải phẫu của amidan vòm (VA)

Amidan vòm (Tonsilla pharyngealis-adenoids) là khối lympho hình tam giác nằm ở phía sau trên của họng mũi dày khoảng 2 mm. Đỉnh của khối amidan vòm khởi đầu ở điểm gần vách ngăn, mô lympho phát triển chiếm hết vòm họng và phát triển dần xuống thành sau họng mũi [47].

Trên bề mặt amidan phủ bởi một lớp biểu mô trụ giả tầng có lông chuyểnn lồi lõm tạo thành nhiều nếp.

Về bào thai học, amidan vòm được tạo thành từ tháng thứ 3 - 7 của thai kì và khi sinh ra đã hình thành đầy đủ và trở thành nơi cư trú của vi khuẩn ngay từ tuần lễ đầu tiên của trẻ sơ sinh. Amidan vòm to lên trong thời kì phát triển của trẻ cho đến sau 6 - 7 tuổi, để đáp ứng miễn dịch chống lại siêu vi, vi khuẩn, dị nguyên và các chất kích thích trong thức ăn và không khí. Sau đó ở đa số trường hợp, amidan vòm thoái triển dần và trước dậy thì thường teo nhỏ lại.

Cung cấp máu cho amidan vòm từ các nguồn: động mạch hầu lên, động mạch khẩu cái lên, động mạch ống chân bướm, nhánh amidan của động mạch mặt. Dẫn lưu tĩnh mạch về đám rối họng, rồi về tĩnh mạch mặt và tĩnh mạch cảnh trong. Bạch huyết của amidan vòm đổ về các hạch ở khoang sau họng và bên họng.

[pic] [pic]

Hình 4 và 5: amidan vòm

(Hình 4 có nguồn từ website )

Hình 5: amidan vòm nhìn qua nội soi

Nguồn trích theo Lê Hữu Linh [7]

1.2.2. SINH LÝ VÀ SINH LÝ BỆNH CỦA VA

VA là tổ chức bạch huyết, có nhiều tế bào bạch cầu. Bình thường VA dày khoảng 2 mm, không cản trở đường thở. VA tuy mỏng nhưng xếp thành nhiều nếp nên diện tiếp xúc rất rộng.

Nhiệm vụ của VA là nhận diện vi khuẩn để tạo ra kháng thể, tiêu diệt vi khuẩn khi chúng tái xâm nhập. Nó cùng với các mô lympho khác ở họng tạo thành vòng bạch huyết Waldeyer, vòng này bao quanh đường thở và đường ăn. Tất cả vi khuẩn từ mũi, miệng vào cơ thể đều phải thông qua vòng này.

Không khí chứa vi khuẩn vào mũi phải đi ngang VA trước khi vào phổi, vi khuẩn sẽ bám vào VA nhờ diện tiếp xúc rộng của nó. Các tế bào bạch cầu chờ sẵn sẽ bắt vi khuẩn và đưa vào trong để nhận diện và tạo ra kháng thể. Kháng thể này được nhân lên và đưa đi khắp nơi, nhưng nhiều nhất là tập trung ở vùng mũi họng và chống lại vi khuẩn khi tái nhiễm.

Do thường xuyên tiếp xúc với vi khuẩn nên VA hay bị viêm, nhưng thường là viêm nhẹ. Tuy nhiên, nếu sức đề kháng giảm, vi khuẩn tràn ngập quá nhiều sẽ xâm nhập toàn bộ VA. Lúc này bạch cầu không đủ sức bắt tất cả vi khuẩn, chúng sẽ bám và cư trú tại VA, sinh sôi nẩy nở và gây viêm bệnh lý.

Nếu viêm kéo dài, thể tích VA sẽ tăng lên và ngăn cản không khí ra vào khiến trẻ bị nghẹt mũi kéo dài, vi khuẩn cộng sinh trong mũi sẽ trở thành vi khuẩn gây bệnh. Nếu viêm kéo dài, thể tích của VA sẽ tăng lên và ngăn cản không khí ra vào, khiến trẻ bị nghẹt mũi. Lượng nước có ở mũi không thoát hơi ra được, đọng lại ngày càng nhiều và chảy ra phía trước, gây chảy mũi trong. Nếu tình trạng nghẹt mũi kéo dài, vi khuẩn cộng sinh trong mũi sẽ trở thành vi khuẩn gây bệnh. Nước mũi trong trở thành nước mũi đục và chảy ra rất nhiều.

Viêm VA còn có thể làm bít tắc lỗ thông vào tai giữa, gây viêm tiết dịch.

Nếu VA to, không khí vào ít, không cung cấp đủ ôxy cho cơ thể, trẻ sẽ trở nên lờ đờ, ngủ không ngon dẫn đến mệt mỏi.

Viêm VA có thể dẫn đến các biến chứng như viêm mũi, xoang, tai, thanh quản, phế quản. Nếu viêm lâu, trẻ thở bằng miệng, mũi ít được sử dụng nên qua nhiều năm chóp mũi trở nên nhỏ hơn, xương hàm trên phát triển kém, răng hàm trên mọc lởm chởm. Cằm có vẻ nhô ra và to hơn. Đó là vẻ mặt đặc trưng của trẻ viêm VA. [15, 38].

1.3. BỆNH HỌC VIÊM VA

Nguyên nhân gây viêm V.A phần lớn là các loại virut Adenovirut, Rhinovirut, cúm, á cúm, virut hợp bào đường thở cùng với các loại vi khuẩn hay gặp ở đường hô hấp trên: Hemophylus Influenza, phế cầu, liên cầu, đặc biệt là liên cầu tan huyết nhóm A- loại liên cầu này có khả năng gây biến chứng toàn thân như viêm cầu thận cấp, thấp tim, viêm khớp cấp. Những bệnh này hay có sự kết hợp của các yếu tố nguy cơ như thể trạng suy dinh dưỡng, yếu tố lạnh, nóng, độ ẩm và bụi bặm, khói hóa chất độc hại từ môi trường sống [2] .

1.3.1. ĐẶC ĐIỂM LÂM SÀNG

Viêm VA gây ra hội chứng tắc mũi sau điển hình. Ở trẻ em, không có viêm VA cấp đơn thuần, mà nó nằm trong bệnh cảnh của viêm mũi họng cấp. Cho nên khi nói viêm VA có nghĩa là viêm VA mạn [1, 4].

1.3.1. 1. Triệu chứng toàn thân của viêm VA

Trẻ bị viêm VA  có thể có thể sốt vừa 38 -390C, đôi khi sốt cao đến 400C hoặc không sốt , nghẹt mũi, sổ mũi, ho, hơi thở hôi.

Trẻ chậm phát triển thể chất và tinh thần, biếng ăn, bỏ bú hoặc bú ngắt quãng, khó ngủ, nghiến răng khi ngủ, ngủ ngáy, ngủ không yên giấc, thường giật mình, đái dầm, trường hợp nặng có thể xuất hiện những cơn ngưng thở trong lúc ngủ, ban ngày trẻ trở nên chậm chạp, lừ đừ, kém hoạt bát, kém năng động, trẻ nói hoặc khóc giọng mũi.

Có thể sưng hạch góc hàm.

1.3.1.2. Triệu chứng cơ năng

- Triệu chứng chính là ngạt mũi và cũng là triệu chứng đầu tiên.Lúc đầu nghẹt ít, về sau nghẹt nhiều, cả hai bên đều ngạt dẫn đến triệu chứng khó thở, trẻ thường há miệng thở, thở khụt khịt, khóc hoặc nói giọng mũi kín …

- Chảy mũi ra trước và xuống họng: lúc đầu trong về sau đục, lượng nước mũi tùy theo khối VA chèn ép. VA càng to thì nghẹt mũi và chảy mũi càng nhiều. Viêm VA phát triển lâu ngày thường dẫn đến chảy mũi thường xuyên, màu vàng hoặc xanh.

- Ho: do khô miệng vì trẻ thường xuyên thở miệng hoặc do dịch chảy xuống từ vòm mũi họng gây viêm họng.

- Rối loạn tiêu hóa: nôn trớ, tiêu chảy.

- Nghe kém.

1.3.1.3. Triệu chứng thực thể

- Có thể có bộ mặt VA nếu viêm lâu ngày: thường xuyên thở miệng, mũi tẹt, trán dô, vòm khẩu cái lõm sâu, hàm răng trên vẫu, vẻ mặt kém nhanh nhẹn. Đây là hậu quả của thở miệng kéo dài trong thời kỳ khuôn mặt trẻ đang phát triển. Tuy nhiên, những dấu hiệu này không phải lúc nào cũng đầy đủ.

- Khám mũi: các khe và hốc mũi đọng dịch mũi, niêm mạc mũi nề đỏ.

- Khám họng: niêm mạc họng đỏ, thành sau họng có dịch mũi hoặc dây mũi đọng đặc dính chảy từ trên vòm xuống. Vòm họng đầy ra phía trước, khi trẻ khóc, hoặc nói A thì vòm không dính sát được vào thành sau họng.

- Khám tai: màng nhĩ đục, mất tam giác sáng, hơi lõm, hoặc ứ dịch hòm nhĩ nếu có viêm tai giữa.

- Ở trẻ lớn và người lớn, nếu soi được mũi sau gián tiếp sẽ thấy vòm nhiều dịch mũi bám, VA sùi to và các khe bám đầy mủ.

- Sờ vòm: khó thực hiện vì trẻ thường phản ứng, ở trẻ lớn và người lớn có thể sờ được VA. Tuy nhiên động tác này không được làm khi VA đang viêm [8, 13, 16, 20, 47].

1.3.1.4. Khám VA bằng nội soi

Khám VA bằng nội soi là phương tiện chẩn đoán viêm VA tốt nhất hiện nay, có thể khám bằng:

- Ống nội soi cứng 900 qua đường miệng: đưa đầu ống nội soi ra sau màn hầu, mặt quan sát của ống nội soi hướng lên trên (hướng về phía vòm họng) để quan sát VA.

- Khám bằng ống nội soi cứng 00 đường kính 4 mm hoặc 2,7 mm qua đường mũi: đưa ống nội soi vào mũi qua đường mũi trước đến cửa mũi sau để quan sát VA. Nếu hốc mũi hẹp, có thể đặt thuốc co niêm mạc trước khi khám.

- Khám bằng ống nội soi mềm qua đường mũi: tiến hành tương tự như ống nội soi cứng 00 .

Có thể thấy VA, đánh giá được kích thước của VA theo phân độ quá phát và tình trạng viêm của VA.

[pic]

Hình 6: VA quan sát qua nội soi đường mũi

Nguồn John E., [35]

1.3.1.5. Phân độ quá phát của VA.

Phân độ qua phát của VA dựa vào mức độ che lấp cửa mũi sau của VA, với chia cửa mũi sau làm 3 phần như sau [1, 38]:

- VA phì đại độ I: VA che lấp bờ trên cửa mũi sau, nhưng chưa đến nữa trên cửa mũi sau.

- VA phì đại độ II: VA che lấp nữa trên cửa mũi sau, chưa che lấp hoàn toàn cửa mũi sau.

- VA phì đại độ III: VA che lấp hoàn toàn cửa mũi sau.

Phân độ quá phát của VA theo wormald và prescott [43]:

- VA phì đại độ I: VA che lấp ≤ 1/3 cửa mũi sau.

- VA phì đại độ II: VA che lấp > 1/3 cửa mũi sau và ≤ 2/3 cửa mũi sau.

- VA phì đại độ III: VA che lấp > 2/3 cửa mũi sau.

Phân độ quá phát của VA theo wormald và prescott được phê chuẩn bởi Ủy Ban Đạo Đức trong nghiên cứu liên quan đến con người ở Universidade Federal de Sergipe.

Phân độ quá phát của VA thành 4 độ theo hiệp hội nhi khoa thế giới, dựa theo mức độ che lấp cửa mũi sau của VA, với mốc từ bờ trên của cửa mũi sau tới trần vòm mũi họng [27, 42, 51].

- VA phì đại độ I: VA < 25% cửa mũi sau

- VA phì đại độ II: 25 % cửa mũi sau ≤ VA 9 |11 |3 |14 (40%) |

|Tổng số |25 (71,4%) |10 (28,6%) |35 (100%) |

[pic]

Biểu đồ 3.1: so sánh tỷ lệ các nhóm tuổi

Nhận xét: Tỷ lệ nhóm tuổi trong nghiên cứu của chúng tôi, theo tỷ lệ giảm dần: >9 (40%); >3 – 6 (31,4%); > 6 – 9 (25,7%); ≤ 3 (2,9%). Tuổi trung bình 8,14 ± 3. Nhỏ nhất là 2 tuổi, lớn nhất là 15 tuổi. Khác với nghiên cứu của Đỗ ĐứcThọ từ 2002 – 2009, tại Bệnh Viện Tỉnh Khánh Hòa, nhóm tuổi từ 18 tháng đến 6 tuổi chiếm tỷ lệ cao nhất (75,2 %) [22].

[pic]

Biểu đồ 3.2: Tỷ lệ nam và nữ.

Nhận xét: Tỷ lệ nam là 71,4% lớn hơn tỷ lệ nữ 28,6% với p < 0,01.

Phù hợp với kết quả nghiên cứu của Đỗ Đức thọ có nam là 71,5%, nữ là 28,5% [22], của Phạm Đình Nguyên có nam 74,2%, nữ là 25,8% [12].

Bảng 3.2: Phân bố bệnh nhân theo địa dư (n = 35)

|Địa dư |Thành thị |Nông thôn |Tổng |

|Số bệnh nhân |24 |11 |35 |

|Tỷ lệ % |68,6% |31,4% |100% |

[pic]

Biểu đồ 3.3: Tỷ lệ thành thị và nông thôn

Nhận xét: Tỷ lệ bệnh nhân ở thành thị là 68,6% khác biệt có ý nghĩ thống kê so với bệnh nhân ở nông thôn 31,4%, với p < 0,01.

Bảng 3.3: Lý do vào viện (n = 35)

|Lý do đến khám |Ngạt mũi |Chảy mũi |Ho |Khịt khạc |

|Có |15 (42,9%) |25 (71,4%) |6 (17,1%) |3 (8,6%) |

|Không |20 (57,1%) |10 (28,6%) |29 (82,9%) |32 (91,4%) |

[pic]

Biểu đồ 3.4: Lý do vào viện

Nhận xét: Trong các lý do đến khám thì lý do chảy mũi chiếm tỷ lệ cao nhất 71,4%, thấp nhất là khịt khạc 8,6%.

3.2. ĐẶC ĐIỂM LÂM SÀNG VÀ HÌNH ẢNH NỘI SOI TRƯỚC PHẪU THUẬT

3.2.1. CÁC ĐẶC ĐIỂM LÂM SÀNG TRƯỚC PHẪU THUẬT

3.2.1.1. Tiền sử

Bảng 3.4. Thời gian mắc bệnh trong tiền sử (n = 35)

|Thời gian |≤1 năm |< 1- ≤ 3 năm |>3 năm |Tổng |

|Số bệnh nhân |17 |15 |3 |35 |

|Tỷ lệ % |48.6% |42.9% |8.6% |100% |

[pic]

Biểu đồ 3.5. Thời gian mắc bệnh

Nhận xét: Số bệnh nhân có thời gian mắc bệnh ≤ 3 năm chiếm tỷ lệ lớn (91,4%), khác biệt có ý nghĩa thống kê so với mắc bệnh > 3 năm (8,6%), với p 1 năm không có ý nghĩa thống kê với p > 0,05.

3.2.1.2. Các rối loạn khi ngủ trước mổ

Bảng 3.5. Các rối loạn khi ngủ trước mổ (n = 35)

|Các rối loạn khi ngủ trước mổ |Số bệnh nhân |Tỷ lệ |

|Ngủ ngáy |23 |65.7% |

|Nghiến răng khi ngủ |18 |52,9% |

|Hay thức giấc |19 |54.3% |

|Đổ mồ hôi khi ngủ |22 |62.9% |

|Tổng |35 |100% |

[pic]

Biểu đồ 3.6: So sánh các triệu chứng rối loạn giấc ngủ

Nhận xét: Trên 50% các trường hợp nghiên cứu có rối loạn giấc ngủ với tỷ lệ: ngủ ngáy 65,7%; nghiến răng khi ngủ 52,9%; hay thức giấc 54,3%; đổ mồ hôi khi ngủ 62,9%.

Tỷ lệ ngủ ngáy ngáy của chúng tôi phù hợp với nghiên cứu của Đỗ Đức Thọ ngủ ngáy trước phẫu thuật 69,3% [22], Phạm Đình Nguyên 68,9% [12].

3.2.1.3. Các triệu chứng cơ năng trước mổ

Bảng 3.6. Các triệu chứng cơ năng trước mổ (n = 35)

|Triệu chứng cơ năng trước mổ |Số bệnh nhân |Tỷ lệ |

|Thường xuyên thở miệng |24 |68,6% |

|Khịt khạc |28 |80% |

|Chảy mũi |30 |85,7% |

|Nghẹt mũi |33 |94,3% |

|Ho |24 |68,6% |

|Chảy mủ tai |2 |5,7% |

[pic]

Biểu đồ 3.7: Biểu đồ so sánh các triệu chứng cơ năng

Nhận xét: Các triệu chứng sắp xếp theo thứ tự giảm dần: cao nhất là nghẹt mũi 94,3 %; chảy mũi 85,7 %; khịt khạc 80 %, thường xuyên thở miệng 68,6 %; ho 68,6 %, chảy mủ tai có tỷ lệ thấp nhất 5,7%. Thứ tự này phù hợp với các tác giả khác:

Theo nghiên cứu của Đỗ Đức Thọ, trước phẫu thuật nghẹt mũi 89,1%; chảy mũi 79,6%; chảy mủ tai 32,8% [22].

Theo nghiên cứu của Phạm Đình Nguyên, trước phẫu thuật ngạt mũi 45,9%; thở miệng 39,3%; chảy mũi 11,5%; chảy mủ tai 3,3% [12].

3.2.1.4. Các triệu chứng thực thể trước mổ

Bảng 3.7. Các triệu chứng thực thể trước mổ (n = 35)

|Triệu chứng thực thể trước mổ |Số bệnh nhân |Tỷ lệ |

|Có bộ mặt VA |11 |31.4% |

|Hốc mũi đọng dịch |23 |65.7% |

|Niêm mạc họng viêm đỏ |21 |60% |

|Đọng dịch mũi ở thành sau họng và vòm |14 |42.4% |

Nhận xét: Các triệu chứng thực thể theo thứ tự giảm dần: hốc mũi đọng dịch 65,7%; niêm mạc họng viêm đỏ 60%; đọng dịch ở thành sau họng và vòm mũi họng là 42,4%; có bộ mặt VA là 31,3%.

3.2.2. HÌNH ẢNH NỘI SOI TRƯỚC PHẪU THUẬT

Bảng 3.8. Mức Độ quá phát của VA (n = 35)

|Mức độ quá phát |Độ I |Độ II |Độ III |Độ IV |

|Số bệnh nhân |1 |7 |14 |13 |

|Tỷ lệ % |2,9% |20% |40% |37,1% |

[pic]

Biểu đồ 3.8: Tỷ lệ độ quá phát VA

Nhận xét: VA quá phát độ III chiếm tỷ lệ cao nhất 40%; độ I thấp nhất 2,9%. Độ quá phát của VA chủ yếu là độ III và IV. Tỷ lệ độ III + IV lớn hơn độ I + II với p< 0,01.

Theo nghiên cứu của Đỗ Đức Thọ, VA quá phát độ I là 1,45%; độ II là 40,1%; độ III là 52,6%; độ IV là 5,8% [22].

Bảng 3.9. Liên quan độ quá phát của VA và các rối loạn khi ngủ trước mổ (n = 35)

|Các rối loạn khi ngủ trước mổ |Độ quá phát của VA trước mổ |Tổng |

| | |n = 35 |

| |Độ I |Độ II |Độ III |Độ IV | |

| |n = 1 |n = 7 |n = 14 |n = 13 | |

|Hay thở miệng |1 (4,2%) |2 (8,3%) |10 (41,7%) |11 (45,8%) |24 (100%) |

|Nghiến răng khi ngủ |1(5,6%) |3 (16,7%) |5 (27,8%) |9 (50%) |18 (100%) |

|Hay thức giấc |0 |1 (5,3%) |8 (42,1%) |10 (52,5%) |19 (100%) |

Nhận xét: Các triệu chứng rối loạn giấc ngủ trong 35 trường hợp nghiên cứu có tỷ lệ tăng theo độ quá phát của VA.

Bảng 3.10. Liên quan độ quá phát của VA và một số triệu chứng lâm sàng ( n = 35)

|Triệu chứng lâm sàng |Độ quá phát của VA trước mổ |Tổng |

| |Độ I |Độ II |Độ III |Độ IV | |

| |n = 1 |n = 7 |n = 14 |n = 13 | |

|Chảy mũi |1 (3,3%) |6 (20%) |11 (36,7%) |12 (40%) |30 (100%) |

|Khịt khạc |0 (0%) |1 (33,3%) |0 (0%) |2 (66,7%) |3 (100%) |

|Có bộ mặt VA |0 (0%) |0 (0%) |5 (45,5%) |6 (54,5%) |11 (100%) |

Nhận xét:

- Trong 33 trường hợp nghẹt mũi: Độ IV và Độ III có tỷ lệ bằng nhau 39,4%; Độ II (39,4%); Độ I (3%).

- Trong 30 trường hợp chảy mũi: có tỷ lệ giảm dần như sau: Độ IV (40%); Độ III (36,7%); Độ II (20%); Độ I (3,3%).

- Trong 35 trường hợp nghiên cứu, chỉ có 3 trường hợp có khịt khạc, trong đó 2 trường hợp VA quá phát Độ IV; 1 trường hợp VA quá phát Độ II.

- Trong 35 trường hợp nghiên cứu có 11 trẻ có bộ mặt VA, trong đó có 5 trường hợp VA quá phát Độ III; 6 trường hợp còn lại VA quá phát Độ IV. Còn Độ II và I không có trường hợp nào có bộ mặt VA.

3.3. KẾT QUẢ PHẪU THUẬT

3.3.1. CÁC ĐẶC ĐIỂM LÂM SÀNG VÀ HÌNH ẢNH NỘI SOI SAU PHẪU THUẬT

Bảng 3.11. Các rối loạn khi ngủ sau mổ 1 tháng và so sánh với trước mổ (n = 35)

|Các rối loạn khi ngủ |Trước mổ |Sau mổ |P |

| |Số bệnh nhân |Tỷ lệ |Số bệnh nhân |Tỷ lệ | |

|Nghiến răng khi ngủ |18 |52,9% |1 |2,9% |p < 0,01 |

|Hay thức giấc |19 |54,3% |2 |5,7% |p< 0,01 |

|Đổ mồ hôi khi ngủ |22 |62,9% |7 |20% |p 0,05 |

[pic]

Biểu đồ 3.10: so sánh các triệu chứng cơ năng trước và sau mổ

Các triệu chứng hay thở miệng, khịt khạc, chảy mũi, nghẹt mũi, ho sau mổ đều giảm rõ so với trước mổ, sự khác biệt tỷ lệ của các triệu chứng này trước và sau mổ có ý nghĩa thống kê với p < 0,01.

Sự khác biệt giữa tỷ lệ chảy mủ tai trước và sau mổ không có ý nghĩa thống kê, với p > 0,05.

Bảng 3.13. Mức Độ quá phát của VA sau mổ và so sánh với trước mổ (n = 35)

|Mức độ |Trước mổ |Sau mổ |

| |Số bệnh nhân |Tỷ lệ |Số bệnh nhân |Tỷ lệ |

|Không quá phát |0 |0 |10 |28,6% |

|Độ I |1 |2,9% |13 |37,1% |

|Độ II |7 |20% |12 |34,3% |

|Độ III |14 |40% |0 |0 |

|Độ IV |13 |37,1% |0 |0 |

[pic]

Biểu đồ 3.11. so sánh độ quá phát của VA trước và sau mổ

Nhận xét: Mức độ quá phát của VA sau mổ giảm so với trước mổ. Sau mổ có 10 trường hợp VA không còn quá phát chiếm 28,6%. VA quát độ I là 13 trường hợp chiếm 37,1%; độ II là 12 trường hợp chiếm 34,3%. Không còn VA quá phát độ III và IV.

3.3.2. ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ PHẪU THUẬT

Bảng 3.14. Kết quả phẫu thuật sau 1 tháng (n = 35)

|Kết quả phẫu thuật |Tốt |Khá |Kém |Tổng |

|Số bệnh nhân |10 |24 |1 |35 |

|Tỷ lệ |28,6% |68,6% |2,9% |100% |

[pic]

Biểu đồ 3.12: kết quả nạo VA

Nhận xét: kết quả khá chiếm tỷ lệ cao nhất 68,6%; tốt là 28,6% và kém là thấp nhất 2,9%.

3.3.3. LIÊN QUAN GIỮA KẾT QUẢ PHẪU THUẬT VÀ HÌNH ẢNH NỘI SOI TRƯỚC MỔ

Bảng 3.15. Kết quả phẫu thuật và tuổi

|Tuổi |Kết quả phẫu thuật |Tổng |p |

| | |n = 35 | |

| |Tốt |Khá và kém | | |

| |n = 10 |n = 25 | | |

| |28,6% |71,4% | | |

|≤ 6 |2 (16,7%) |10 (83,3%) |12 (100%) |P = 0,46 |

|> 6 |8 (34,8%) |15 (65,2%) |23 (100%) | |

Nhận xét: Sự khác biệt về kết quả phẫu thuật giữa nhóm tuổi ≤ 6 và > 6 không có ý nghĩa thống kê, với P > 0,05.

Bảng 3.16. Kết quả phẫu thuật và độ quá phát của VA trước mổ

|Độ quá phát của VA trước mổ |Kết quả phẫu thuật |Tổng |p |

| | |n = 35 | |

| |Tốt |Khá và kém | | |

| |n = 10 |n = 25 | | |

| |28,6% |71,4% | | |

|Độ I và II |4 (50%) |4 (50%) |8 (100%) |P = 0,278 |

|Độ III và IV |6 (22,2%) |21 (77,8%) |27(100%) | |

Nhận xét: sự khác biệt về kết quả phẫu thuật của nhóm VA quá phát độ I + II và nhóm VA độ III + IV không có ý nghĩa thống kê (p>0,05).

3.3.4. BIẾN CHỨNG PHẪU THUẬT

Trong 35 trường hợp nghiên cứu của chúng tôi không có ca nào xẩy ra biến chứng trong và sau khi phẫu thuật.

Chương 4

BÀN LUẬN

4.1. ĐẶC ĐIỂM CHUNG

4.1.1. TUỔI VÀ GIỚI

Trong nghiên cứu của chúng tôi (bảng 3.1 và biểu đồ 3.1), nhóm tuổi ≤ 3 chiếm tỷ lệ thấp nhất (2,9%); nhóm tuổi > 9 chiếm tỷ lệ cao nhất (40%). Tuổi trung bình là 8,14 ± 3. Nhỏ nhất là 2 tuổi và lớn nhất là 15 tuổi.

Kết quả của chúng tôi phù hợp với nghiên cứu của Trần Anh Tuấn 7,4 ± 4 [23].

Kết quả của chúng tôi khác nghiên cứu của Đỗ ĐứcThọ từ 2002 – 2009, tại Bệnh Viện Tỉnh Khánh Hòa, nhóm tuổi từ 18 tháng đến 6 tuổi chiếm tỷ lệ cao nhất (75,2 %) [22], của Luiz Euribel Prestes Carneiro ở São Paulo, Braxil tuổi chiếm tỷ lệ cao là từ 3 - 6 tuổi (56,86%) [27]..

Bảng 4.1: Tuổi trung bình của chúng tôi và một số tác giả

|Tác giả |Nơi nghiên cứu |n |Tuổi |

| | | |trung bình |

| Trần Anh Tuấn (2010) [23] |Bệnh Viện Đại Học Y Dược Thành Phố Hồ Chí Minh |52 |7,4 ± 4 |

|Caylakli F. (2009) [24] |Thổ Nhĩ Kỳ |85 |5.0[pic]±[pic]2.2 |

|Chen L. (1999) [27] |Đài Loan |105 |6,1 |

|Sedat A.(2008) [45] |Thổ Nhĩ Kỳ |1132 |9.59[pic]±[pic]2.6 |

|Ungkanont K, Damrongsak S (2004) [49] |Thái Lan | 37 |6 ± 2.8 |

|Võ Nguyễn Hoàng Khôi (2010) |Bệnh Đa Khoa Thành Phố Buôn Ma Thuột |35 |8,14 ± 3 |

Viêm VA là một trong những bệnh lý thường gặp ở lứa tuổi nhà trẻ mẫu giáo (1 – 6) tuổi. Mô lympho vùng mũi họng có ở trẻ sơ sinh ngay từ lúc chào đời, phát triển tối đa trong thời kỳ 1 - 6 tuổi. Sau đó nhỏ dần và đến tuổi dậy thì nó teo đi. Và nội soi thấy mô lympho ở trẻ từ 1 – 6 tuổi to, thì đây là sự phát triển sinh lý bình thường [4]. Tuy nhiên chúng tôi vẫn thực hiện phẫu thuật nạo VA ở những trẻ từ ≤ 6 tuổi, Nếu VA viêm VA mạn tính nhiều đợt ≥ 5 đợt/năm hoặc VA quá phát gây nên biến chứng lên các cơ quan lân cận như viêm mũi họng, viêm tai giữa, viêm thanh khí phế quản… hoặc gây ảnh hưởng chất lượng sống như các rối loạn khi ngủ (ngủ ngáy, hay thở miệng, ngừng thở khi ngủ …) [9, 17, 32, 35]. Theo Lê Văn Lợi (2006) thường tiến hành nạo VA cho trẻ từ 6 tháng tuổi trở lên, trừ trường hợp VA quá phát gây ảnh hưởng rõ rệt đến hô hấp có thể tiến hành nạo sớm hơn [9].

Nghiên cứu của chúng tôi (bảng 3.1 và biểu đồ 3.2) có tỷ lệ nam là 71,4% lớn hơn tỷ lệ nữ 28,6% với p < 0,01. Phù hợp với kết quả nghiên cứu của Đỗ Đức thọ có nam là 71,5%, nữ là 28,5% [22], của Phạm Đình Nguyên có nam 74,2%, nữ là 25,8% [12]. Tỷ lệ nam và nữ của chúng tôi cũng phù hợp với một số tác giả nước ngoài, nghiên cứu của Luiz Euribel Prestes Carneiro ở São Paulo, Braxil có tỷ lệ nam là 60,78%, nữ là 39,22% [31].

Bảng 4.2: Tỷ lệ nam và nữ của chúng tôi và một số tác giả

|Tác giả |Nơi nghiên cứu |n |nam |Nữ |

|Phạm Đình Nguyên (2009) [12] |Bệnh Viện Nhi Đồng 1TP HCM |61 |74,2% |25,8% |

|Đỗ Đức Thọ (2010) [22] |Bệnh Viện Đa Khoa Khánh Hòa |137 |71,5% |28,5% |

|Chen L. (1999) [27] |Đài Loan |105 |70,5% |29,5% |

|Euribel Prestes Carneiro L. (2009) [31] |São Paulo |51 |60,78% |39,22% |

|Osman B. (2005) [41] |Turkey |60 |58,3% |41,7% |

|Võ Nguyễn Hoàng Khôi |Bệnh Viện Đa Khoa TP BMT |35 |71,4% |28,6% |

4.1.2. VỀ ĐỊA DƯ

Nghiên cứu của chúng tôi (bảng 3.2 và biểu đồ 3.3) có tỷ lệ bệnh nhân ở thành thị là 68,6% khác biệt có ý nghĩ thống kê so với bệnh nhân ở nông thôn 31,4%, với p < 0,01. Trong nghiên cứu của Luiz Euribel Prestes Carneiro ở São Paulo, Braxil có tỷ lệ thành thị 54,9% và nông thôn 45,1% với p > 0,05.

Kết quả của chúng tôi có tỷ lệ thành thị cao hơn hẳn nông thôn, điều này cho thấy ở thành thị trẻ được chăm sóc sức khỏe ban đầu tốt hơn nông thôn, người dân nhận thức tốt hơn về tình trạng sức khỏe của trẻ.

4.1.3. LÝ DO VÀO VIỆN

Nghiên cứu của chúng tôi (bảng 3.3 và biểu đồ 3.4) có tỷ lệ lý do đến khám theo thứ tự giảm dần: chảy mũi chiếm tỷ lệ cao nhất 71,4%; tiếp đến là ngạt mũi 42,9%; ho là 17,1% và thấp nhất là khịt khạc 8,6%.

Trong các triệu chứng cơ năng trước khi phẫu thuật thì nghẹt mũi chiếm tỷ lệ cao nhất 94,3%. Nhưng trong các lý do vào viện thì chảy mũi chiếm tỷ lệ cao nhất là vì triệu chứng chảy mũi là triệu chứng mà cha, mẹ của trẻ dễ dàng nhận biết nhất.

4.2. ĐẶC ĐIỂM LÂM SÀNG VÀ HÌNH ẢNH NỘI SOI TRƯỚC PHẪU THUẬT

4.2.1. CÁC ĐẶC ĐIỂM LÂM SÀNG TRƯỚC PHẪU THUẬT

4.2.1.1. Tiền sử

Theo bảng 3.4, Số bệnh nhân có thời gian mắc bệnh ≤ 3 năm chiếm tỷ lệ lớn 91,4%, khác biệt có ý nghĩa thống kê so với mắc bệnh > 3 năm, với p 1 năm không có ý nghĩa thống kê với p > 0,05. Tỷ lệ trẻ mắc bệnh > 1 là 51,4% cho thấy vấn đề phát hiện và điều trị VA hiện nay vẫn còn chưa tốt. Đa số trẻ đi khám với triệu chứng chảy mũi thì thường được chẩn đoán là viêm mũi họng, nhưng không được kiểm tra VA. Nội soi chẩn đoán VA là phương tiện chẩn đoán chính xác, cho ta 1 hình ảnh rõ ràng về kích thước, độ quá phát của VA, tình trạng bề mặt, viêm nhiễm của VA. Tuy nhiên, nội soi chỉ áp dụng được với những trẻ hợp tác tốt. Hiện nay, ngoài nội soi chẩn đoán VA, người ta có thể chẩn đoán VA dựa vào X-quang, CT-scanner, IMR …Cũng cho hình ảnh về độ quá phát của VA [5, 37, 39].

Ngày nay, chụp X-quang là phương tiện phổ biến, với điều kiện hiện tại của cơ sơ chúng ta hiện nay, đối với những trẻ không nội soi kiểm tra VA được, chúng ta có thể cho chụp X-quang sọ nghiên để hổ trợ chẩn đoán tránh bỏ sót bệnh.

4.2.1.2. Các rối loạn khi ngủ trước mổ

Theo bảng 3.5 và biểu đồ 3.6, tỷ lệ triệu chứng rối loạn khi ngủ theo tỷ lệ giảm dần: đổ mồ hôi khi ngủ là 62,9%; ngủ ngáy 65,7%; hay thức giấc 54,3%; nghiến răng khi ngủ 52,9%.

Tỷ lệ ngủ ngáy ngáy của chúng tôi phù hợp với nghiên cứu của Đỗ Đức Thọ ngủ ngáy trước phẫu thuật 69,3% [22], Phạm Đình Nguyên 68,9% [12].

Biểu đồ 3.6 cho thấy > 50% có các triệu chứng rối loạn giấc ngủ, phù hợp với các tài liệu trong và ngoài nước VA là một trong những nguyên nhân gây rối loạn giấc ngủ [18, 20, 27, 30]. Trong nghiên cứu của chúng tôi, qua quá trình thu thập số liệu chúng tôi thấy đa số cha mẹ trẻ không quan sát và đánh giá được dấu hiệu ngừng thở khi ngủ, điều này do dân trí của chúng ta còn chưa cao, người dân chỉ quan sát để ý những dấu hiệu dễ phát hiện như chảy mũi, ngủ ngáy, nghiến răng, thở miệng …

Tỷ lệ các triệu chứng về rối loạn giấc ngủ của một số tác giả khác:

- Phạm Đình Nguyên (2009) nghiên cứu 61 ca nạo VA ở trẻ em bằng coblator tại Bệnh Viện Nhi Đồng 1, Thành Phố Hồ Chí Minh có: ngủ ngáy 68,9%; ngưng thở lúc ngủ 24,6% [12].

- Đỗ Đức Thọ (2010) nghiên cứu 137 trẻ trong đề tài đánh giá kết quả phẫu thuật nạoVA nội soi tại Khoa Tai Mũi Họng Bệnh Viện Tỉnh Khánh Hòa: ngủ ngáy 69,3%; ngừng thở khi ngủ 14,6% [22].

Nghiên cứu của chúng tôi và các tác giả khác cho thấy, VA quá phát gây nên rối loạn giấc ngủ, điều này ảnh hưởng đến chất lượng sống, sự phát triển về thể chất và tinh thần của trẻ.

Hiện nay trên thế giới có nhiều công trình nghiên cứu về liên quan giữa rối loạn giấc ngủ với VA quá phát:

- Ameli F., Brocchetti F., Semino L., Fibbi A.., (2007), nghiên cứu hội chứng ngừng thở khi ngủ và phẫu thuật cắt amidan và nạo VA trên 118 trẻ, kết quả có 80,5% trẻ hết ngủ ngáy sau phẫu thuật [24].

- Izu SC, Itamoto CH, Pradella-Hallinan M et all, (2010), ở Braxin, nghiên cứu hội chứng ngừng thở khi ngủ ở trẻ thở bằng miệng với n = 248. Cho kết quả quá phát cả amidan và VA là 61,2%; chỉ có VA quá phát là 14,9% [32].

- Euribel Prestes Carneiro L., Cardoso Ramalho Neto G., Gonçalves Camera M., (2009) trong nghiên cứu hiệu quả của phẫu thuật cắt Amidan và nạo VA với chất lượng sống của trẻ, ở những trẻ có amidan và VA quá phát với n = 51, cho kết quả: có sự cải thiện rõ rệt về ngủ ngáy sau mổ so với trước mổ [31].

- Ungkanont K, Damrongsak S (2004), n = 37, ở Thái Lan, nghiên cứu hiệu quả của phẫu thuật nạo VA với các vấn đề về mũi xoang và các bệnh lý khác: cho thấy có 92% trẻ có rối loạn tắc nghẽn khi ngủ và sự cải thiện rõ sau phẫu thuật.

4.2.1.3. Các triệu chứng cơ năng trước mổ

Bảng 3.6 cho thấy các triệu chứng cơ năng chiếm tỷ lệ cao xếp theo thứ tự giảm dần: cao nhất là nghẹt mũi 94,3 %; chảy mũi 85,7 %; khịt khạc 80 %, thường xuyên thở miệng 68,6 %; ho 68,6 %, chảy mủ tai có tỷ lệ thấp nhất 5,7%. Thứ tự này phù hợp với một số tác giả khác trong và ngoài nước:

Theo nghiên cứu của Đỗ Đức Thọ, trước phẫu thuật nghẹt mũi 89,1%; chảy mũi 79,6%; chảy mủ tai 32,8% [22].

Theo nghiên cứu của Phạm Đình Nguyên, trước phẫu thuật nghẹt mũi 45,9%; thở miệng 39,3%; chảy mũi 11,5%; chảy mủ tai 3,3% [12].

Nghiên cứu của Osman B., Thổ Nhĩ Kì (n = 60), trước phẫu thuật: nghẹt mũi 91,6%; thở miệng 85%; chảy mũi 75% [41]

Ta thấy nghẹt mũi chiếm tỷ lệ cao nhất, nhưng trong lý do vào viện thì chảy mũi là lý do trẻ được đưa đến khám cao nhất. Vì nghẹt mũi là dấu hiệu chủ quan, cha mẹ trẻ thường chỉ biết trẻ nghẹt mũi khi trẻ thông báo. Cho nên khi trẻ được đưa đến khám thì thường VA đã gây biến chứng lên mũi xoang và các cơ quan lân cận.

4.2.1.4. Các triệu chứng thực thể trước mổ

Theo bảng 3.7, các triệu chứng thực thể theo thứ tự giảm dần: hốc mũi đọng dịch 65,7%; niêm mạc họng viêm đỏ 60%; đọng dịch ở thành sau họng và vòm mũi họng là 42,4%; có bộ mặt VA là 31,3%.

Các triệu chứng thực thể để đánh giá tình trạng VA chủ yếu là các triệu chứng biểu hiện qua các cơ quan khác, vì khi khám thực thể chúng ta không thể quan sát rõ VA bằng những dụng cụ khám thông thường. Trong đó triệu chứng đọng dịch hốc mũi là biểu hiện của viêm mũi xoang, niêm mạc họng viêm đỏ và đọng dịch ở thành sau họng là biểu hiện của viêm vòm mũi họng, do vậy nhưng triệu chứng này tuy xuất hiện với tỷ lệ cao > 50%, nhưng nó không có giá trị chẩn đoán xác định VA, mà cần phải có những triệu chứng khác và dấu hiệu về hình ảnh hổ trợ. Trẻ có bộ mặt VA đây là biến dạng của vùng sọ mặt, do VA quá phát gây bít tắc mũi sau lau ngày [1, 5]. Trong nhiều tài liệu y khoa và công trình nghiên cứu về VA của Việt Nam và thế giới chúng tôi thấy có đề cập đến bộ mặt VA, nhưng chưa thấy các tác giả đưa ra tỷ lệ bộ mặt VA. Trong nghiên cứu của chúng tôi có 11 trẻ có bộ mặt VA có tỷ lệ 31,3%, cho thấy nhiều trẻ bị VA quá phát lâu ngày.

4.2.2. HÌNH ẢNH NỘI SOI TRƯỚC PHẪU THUẬT

4.2.2.1. Độ quá phát của VA trước mổ

Theo bảng 3.8 và biểu đồ 3.8, tỷ lệ độ quá phát của VA: độ I là 2,9%; độ II là 20%; độ III là 40%; độ IV là 37,1%. VA quá phát độ III chiếm tỷ lệ cao nhất 40%; độ I thấp nhất 2,9%. Độ quá phát của VA chủ yếu là độ III và IV. Tỷ lệ độ III + IV là 77,1% lớn hơn độ I + II là 22,9%, với p< 0,01.

Bảng 4.3: So sánh độ quá phát của VA trong nghiên cứu của chúng tôi và một số tác giả khác

|Tác giả |Tỷ lệ độ quá phát của VA |

| |Độ I |Độ II |Độ III |Độ IV |

|Đỗ Đức Thọ (2010) |1,45% |40,1% |52,6% |5,8% |

|n = 137 [22]. | | | | |

|Trần Anh Tuấn (2010), n = 52 nhóm nạo bằng La |7,7% |40,4% |34,6% |17,3% |

|Foce [23] | | | | |

|Cassano P. (2003) |8,2% |20,4% |64,3% |7,14% |

|n = 98 [25 ] | | | | |

|Võ Nguyễn Hoàng Khôi (2010), n = 35 |2,9% |20% |40% |37,1% |

Theo bảng 4.3, cả 4 nghiên cứu đều cho kết quả VA độ I có tỷ lệ thấp nhất. Đây là kết quả của những trẻ có chỉ định nạo VA và được phẫu thuật nạo VA. Còn tỷ lệ VA quá phát độ I ở trẻ có thể cao hơn nhiều.

Còn đối với độ II, III, IV thì cả 4 nghiên cứu đều khác nhau, xếp theo tỷ lệ thứ tự giảm dần:

Của Đỗ Đức Thọ: độ III có tỷ lệ cao nhất 52,6%; tiếp theo là độ II (40,1%); độ IV (5,8%), độ I thấp nhất (1,45%).

Của Trần Anh Tuấn: độ II chiếm tỷ lệ cao nhất 40,4%; tiếp theo là độ III (34,6%); độ IV (17,3%); độ I (7,7%).

Cassano P.: Cao nhất là độ III (64,3%); tiép đến là độ II (20,4%); độ I (8,2%); độ IV (7,14%).

Của chúng tôi: độ III có tỷ lệ cao nhất (40%); tiếp đến là độ IV (37,1%); độ II (20%); độ I (2,9%).

Trong nghiên cứu của Đỗ Đức Thọ và Trần Anh Tuấn, nhóm VA độ II và III chiếm ưu thế. Còn nghiên cứu của chúng tôi thì độ III và IV chiếm ưu thế.

Theo Cassano P., không nên phẫu thuật nạo VA đối với độ I và II vì triệu chứng chảy mũi có thể do liên quan tới dị ứng, viêm mũi không do VA…[25]. Tuy nhiên đa số các tài liệu và công trình nghiên cứu đưa ra chỉ định nạo VA khi viêm V.A tái đi tái lại nhiều lần trong năm (≥ 5 lần/ 1năm), V.A quá phát gây cản trở đường thở, VA gây biến chứng gần và xa [1, 17, 38].

4.2.2.2. Liên quan độ quá phát của VA và các rối loạn khi ngủ trước mổ

Bảng 3.9 cho thấy các triệu chứng rối loạn giấc ngủ trong 35 trường hợp nghiên cứu có tỷ lệ tăng theo độ quá phát của VA. Tuy nhiên chúng tôi chưa đưa ra được mối liên quan giữa độ qua phát VA và các triệu chứng của rối loạn giấc ngủ. Vì mẫu trong mỗi phân độ còn nhỏ, ngoài ra có nhiều bệnh lý khác cũng gây nên những triệu chứng rối loạn giấc ngủ tương tự như (yếu tố nhiễu): VA quá phát, dày màn hầu, dị tật bẩm sinh hàm miệng, béo phì …

4.2.2.3. Liên quan độ quá phát của VA và một số triệu chứng lâm sàng ( n = 35)

Theo bảng 3.10:

- Trong 33 trường hợp nghẹt mũi: Độ IV và Độ III có tỷ lệ bằng nhau 39,4%; Độ II (39,4%); Độ I (3%).

- Trong 30 trường hợp chảy mũi: có tỷ lệ giảm dần như sau: Độ IV (40%); Độ III (36,7%); Độ II (20%); Độ I (3,3%).

- Trong 35 trường hợp nghiên cứu, chỉ có 3 trường hợp có khịt khạc, trong đó 2 trường hợp VA quá phát Độ IV; 1 trường hợp VA quá phát Độ II.

- Trong 35 trường hợp nghiên cứu có 11 trẻ có bộ mặt VA, trong đó có 5 trường hợp VA quá phát Độ III; 6 trường hợp còn lại VA quá phát Độ IV. Còn Độ II và I không có trường hợp nào có bộ mặt VA.

Trong nghiên cứu của chúng tôi, VA quá phát độ IV chiếm tỷ lệ cao nhất trong các triệu chứng lâm sàng.

4.3. KẾT QUẢ PHẪU THUẬT

4.3.1. CÁC RỐI LOẠN KHI NGỦ SAU MỔ 1 THÁNG VÀ SO SÁNH VỚI TRƯỚC MỔ (n = 35)

Theo bảng 3.11, các rối loạn khi ngủ sau mổ xếp theo thứ tự giảm dần như sau: đổ mồ hôi khi ngủ 20%; ngủ ngáy 14,3%; hay thức giấc 5,7%; nghiến răng khi ngủ 2,9%.

Bảng 3.11 và biểu đồ 3.9 cho thấy các rối loạn sau mổ giảm hẳn so với trước mổ, với sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với p < 0,01. Ngủ ngáy từ 65,7% còn 14,3 %; nghiến răng khi ngủ từ 52,9% còn 2,9%; hay thức giấc từ 54,3% còn 5,7%; đổ mồ hôi khi ngủ từ 62,9% còn 20%.

Nghiên cứu của một số tác giả khác cũng cho thấy có sự cải thiện rõ các rối loạn khi ngủ sau mổ:

Nghiên cứu của Đỗ Đức Thọ: ngủ ngáy (trước mổ 69,3% - sau mổ 14,6%); ngừng thở khi ngủ (trước mổ 14,6% - sau mổ 0%) [22].

Nghiên cứu của Phạm Đình Nguyên: tỷ lệ ngủ yên của trẻ là 100% vào ngày thứ 3 sau phẫu thuật, tuy nhiên nghiên cứu của Phạm Đình Nguyên khác với chúng tôi là phẫu thuật nạo VA bằng coblator [12].

Nghiên cứu của Osman B., Thổ Nhĩ Kì (n = 60): tỷ lệ ngủ ngáy (trước mổ 83% - sau mổ là 5%) [41].

4.3.2. CÁC TRIỆU CHỨNG CƠ NĂNG SAU MỔ 1 THÁNG VÀ SO SÁNH VỚI TRƯỚC MỔ (n = 35)

Theo bảng 3.12 và biểu đồ 3.10, Các triệu chứng hay thở miệng, khịt khạc, chảy mũi, nghẹt mũi, ho sau mổ đều giảm rõ so với trước mổ, sự khác biệt tỷ lệ của các triệu chứng này trước và sau mổ có ý nghĩa thống kê với p < 0,01.

Sự khác biệt giữa tỷ lệ chảy mủ tai trước và sau mổ không có ý nghĩa thống kê, với p > 0,05.

Nghiên cứu của một số tác giả khác cũng cho thấy có sự cải thiện rõ triệu chứng cơ năng sau mổ:

Nghiên cứu của Đỗ Đức Thọ: chảy mũi (trước mổ 79,6% - sau mổ 25,5%); nghẹt mũi (trước mổ 89,1% - sau mổ 9,5%) [22].

Nghiên cứu của Osman B., Thổ Nhĩ Kì (n = 60): chảy mũi (trước mổ 75% - sau mổ là 0%); nghẹt mũi (trước mổ 91,6% - sau mổ 6,6%) [41]

Qua nghiên cứu của chúng tôi và một số các tác giả khác cho thấy lợi ích của phẫu thuật nạo VA, với sự cải thiện về các triệu chứng rối loạn giấc ngủ và triệu chứng cơ năng.

4.3.3. MỨC ĐỘ QUÁ PHÁT CỦA VA SAU MỔ VÀ SO SÁNH VỚI TRƯỚC MỔ (n = 35)

Theo bảng 3.13, tỷ lệ độ quá phát của VA sau mổ: không quá phát (28,6%); độ I (37,1%); độ II (34,3%); độ III và IV là 0%.

Mức độ quá phát của VA sau mổ giảm so với trước mổ. Sau mổ có 10 trường hợp VA không còn quá phát chiếm 28,6%. VA quát độ I là 13 trường hợp chiếm 37,1%; độ II là 12 trường hợp chiếm 34,3%. Không còn VA quá phát độ III và IV.

Sau mổ chỉ có 28,6% VA hết quá phát, còn 71,4% còn sót VA sau nạo, tỷ lệ còn sót VA sau nạo khá cao so với VA hết quá phát (p 6 (n =23): tốt có 8 trường hợp (34,8%); khá + kém có 15 trường hợp (65,2%).

Sự khác biệt về kết quả phẫu thuật giữa 2 nhóm tuổi không có ý nghĩa thống kê với p > 0,05.

Trong nhóm tuổi ≤ 6, kết quả khá + kém lớn hơn tốt với p < 0,01. Trong nhóm > 6 kết quả khá + kém khác biệt với tốt không có ý nghĩa thống kê với p > 0,05. Trong cùng một điều kiện phẫu thuật, với nhóm tuổi ≤ 6, thì trẻ thường không nghe lời và sự hợp tác kém nên gây khó khăn cho cuộc mổ hơn những trẻ > 6 tuổi.

Về kết quả phẫu thuật và độ quá phát của VA trước mổ, theo bảng 3.16:

Nhóm độ I + độ II (n =8) : tốt 4 trường hợp (50%); khá + kém 4 trường hợp (50%).

Nhóm độ III + IV (n = 27): tốt 6 trường hợp (22,2%); khá + kém 21 trường hợp (77,8%). Nhóm tỷ lệ khá + kém lớn hơn tốt, với p < 0,01.

Sự khác biệt về kết quá phẫu thuật của nhóm VA quá phát độ I + II và nhóm VA độ III + IV không có ý nghĩa thống kê (p>0,05).

4.3.6. BIẾN CHỨNG

Trong 35 trường hợp nghiên cứu của chúng tôi, không có trường hợp nào xảy ra biến chứng. Tuy nhiên cũng như các loại phẫu thuật khác, chúng ta luôn phải đánh giá, đề phòng các biến chứng trước, trong khi nạo VA và sau khi nạo VA. Đặc biệt là tình trạng chảy máu trong và sau khi nạo. Và tình trạng nhiễm trùng tại chỗ và toàn thân sau nạo VA.

KẾT LUẬN

Qua 35 ca nghiên cứu chúng tôi rút ra những kết luận sau:

1. Các đặc điểm lâm sàng và hình ảnh nội soi

- Số bệnh nhân có thời gian mắc bệnh ≤ 3 năm chiếm tỷ lệ lớn 91,4%.

- Các triệu chứng rối loạn giấc ngủ sau mổ giảm hẳn so với trước mổ, với tỷ lệ trước và sau mổ như sau: ngủ ngáy (65,7% - 14,3%); nghiến răng khi ngủ (52,9% - 2,9%); hay thức giấc (54,3% - 5,7%); đổ mồ hôi khi ngủ (62,9% - 20%).

- Các triệu chứng cơ năng sau mổ giảm so với trước mổ, với tỷ lệ trước và sau mổ như sau: thở miệng (68,6% - 8,6%); khịt khạc (80% - 22,9%); chảy mũi (85,7% - 8,6%); nghẹt mũi (94,3% - 5,7%); ho (68,6% - 20%); chảy mủ tai (5,7% - 2,9%).

- Có bộ mặt VA 31,4%.

- Độ quá phát của VA trước phẫu thuật: chủ yếu là độ III và IV. Độ III (40%); độ IV (37,1%).

- Độ quá phát của VA sau phẫu thuật: VA hết quá phát là 28,6%; độ quá phát giảm so với trước mổ là 68,5% ; độ quá phát VA không giảm so với trước mổ 2,9%.

2. Kết quả phẫu thuật nạo VA

- Tốt là 28,6%.

- Khá là 68,6%.

- Kém là 2,9%.

KIẾN NGHỊ

Qua nghiên cứu chúng tôi có những kiến nghị:

1. Những trẻ có biểu hiện rối loạn giấc ngủ, nghẹt mũi, chảy mũi, thở miệng nên cho nội soi kiểm tra VA.

2. Phát triển phẫu thuật nạo VA dưới gây mê và nội soi.

3. Theo dõi và tái khám sau mổ bằng khám lâm sàng và nội soi kiểm tra VA.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

TIẾNG VIỆT

1. Nguyễn Đình Bảng (2005), “Viêm V.A và Amidan”, Bài giảng Tai Mũi Họng, Đại học Y Dược Thành Phố Hồ Chí Minh, Lưu Hành Nội Bộ, tr. 32-73.

2. Phạm Thị Bích Đào (2009), “Viêm VA”, Bệnh hô hấp,

3. Nguyễn Hữu Khôi (2006), “Cơ quan lympho họng”, Viêm họng amidan và VA, Nhà xuất bản Y học, Thành phố Hồ Chí Minh, tr. 121-128.

4. Nguyễn Hữu Khôi (2006), “VA, viêm họng mũi và VA quá phát bít tắc”, Viêm họng amidan và VA, Nhà xuất bản Y học, Thành phố Hồ Chí Minh, tr. 137-138.

5. Nguyễn Hữu Khôi (2006), “Viêm họng mũi (viêm VA)”, Viêm họng amidan và VA, Nhà xuất bản Y học, Thành phố Hồ Chí Minh, tr. 139-143

6. Nguyễn Hữu Khôi (2006), “Một số kỹ thuật mới trong nạo VA”, Viêm họng amidan và VA, Nhà xuất bản Y học, Thành phố Hồ Chí Minh, tr. 151-152

7. Lê Hữu Linh (2003), “Giải phẫu vùng tỵ hầu”, Tuyển tập ảnh của nội soi đường hô hấp: phần 1- đường hô hấp trên,

8. Ngô Ngọc Liễn (2006), “Viêm VA và amidan”, Giản yếu bệnh học tai mũi họng, Nhà xuất bản Y học, Hà Nội, tr. 258-259.

9. Ngô Ngọc Liễn (2006), “Nạo VA”, Giản yếu bệnh học tai mũi họng, Nhà xuất bản Y học, Hà Nội, tr. 262-263.

10. Lê Văn Lợi (2001), “Phẫu thuật nạo VA”, Các phẫu thuật thông thường tai mũi họng tập II, Nhà xuất bản Y học, Hà Nôi, tr. 5-22

11. Phùng Minh Lương (2005), “Mô hình bệnh lý TMH trong 5 năm 2000-2004”, Tạp chí tai mũi hong, (3), tr. 17-24.

12. Phạm Đình Nguyên, Đặng Hoàng Sơn, Nhan Trừng Sơn (2009), “Nhân 61 ca nạo VA ở trẻ em bằng coblator tại Bệnh Viện Nhi Đồng 1, Thành Phố Hồ Chí Minh”, Tạp chí tai mũi họng số đặc biệt 2 và 3 năm 2009, tr. 12 - 15

13. Cát Huy Quang (2008), “Viêm VA ở trẻ em”, y khoa và tin tức, Bệnh viện Đa Khoa Vạn Hạnh,

14. Nguyễn Quang Quyền (1995), “Hầu”, Bài giảng giải phẫu học tập I, Nhà xuất bản Y học, Thành phố Hồ Chí Minh, tr. 361-362

15. Sức Khỏe & Đời Sống “Viêm VA khi nào cần nạo” Bệnh trẻ em,

16. Nhan Trừng Sơn (2004), “Viêm VA”, Tai mũi họng nhập môn, , Nhà xuất bản Y học, Thành phố Hồ Chí Minh, tr. 242-246

17. Nhan Trừng Sơn (2004), “Nạo VA”, Tai mũi họng nhập môn, , Nhà xuất bản Y học, Thành phố Hồ Chí Minh, tr. 247-249

18. Nhan Trừng Sơn (2008), “Viêm VA”, Tai mũi họngquyển 2, Nhà xuất bản Y học, Thành phố Hồ Chí Minh, tr. 502-511

19. Nhan Trừng Sơn (2008), “Phẫu thuật nạo VA”, Tai mũi họngquyển 2, Nhà xuất bản Y học, Thành phố Hồ Chí Minh, tr. 513-523

20. Võ Tấn (2003), “Viêm VA”, Tai mũi họng thực hành tập I, Nhà xuất bản Y học, Thành phố Hồ Chí Minh, tr. 236-212

21. Đặng Thanh (2009), “Viêm VA”, Giáo trình tai mũi họng, Nhà xuất bản Đại Học Huế, tr. 105-109.

22. Đỗ Đức Thọ (2010), “Đánh giá kết quả phẫu thuật nạo VA nội soi tại khoa Tai Mũi Họng Bệnh Viện Tỉnh Khánh Hòa”, Hội nghị Tai Mũi Họng Khánh Hòa Mở Rộng năm 2010, tr. 20-25.

23. Trần Anh Tuấn (2010), Sử dụng coblation trong phẫu thuật cắt amidan và nạo VA, Luận án tiến sỹ, Đại Học Y Dược Thành Phố Hồ Chí Minh.

TIẾNG NƯỚC NGOÀI

24. Ameli F., Brocchetti F., Semino L., Fibbi A., (2007), “Adenotonsillectomy in obstructive sleep apnea syndrome. Proposal of a surgical decision-taking algorithm”,

25. Cassano P., Gelardi M., Cassano M., (2003), “Adenoid tissue rhinopharyngeal obstruction grading based on fiberendoscopic findings: a novel approach to therapeutic management”

26. Caylakli F., Hizal E., Yilmaz I. et all (2009), “Correlation between adenoid–nasopharynx ratio and endoscopic examination of adenoid hypertrophy: A blind, prospective clinical study”,

27. Charles D, Blustone and Richad M. (2002), “Tonsillectomy, adenoidectomy, and UPP” Surgical atlas of pediatric otolaryngology, BC Decker inc , p. 381 – 385.

28. Chen L, Lee1 F, Chen H, and all (1999), “A Combined Method of Transoral and Transnasal Endoscopic Adenoidectomy”,

29. Cummings K., (2010), “Adenoid Hypertrophy, Symptoms and Treatment”,

30. David N., Jan V., (2008), “Snoring and Obstructive Sleep Apnea, Upper Airway Evaluation”,

31. Euribel Prestes Carneiro L., Cardoso Ramalho Neto G., Gonçalves Camera M., (2009), “Adenotonsillectomy Effect on the Life Quality of Children with Adenotonsillar Hyperplasia”,

32. Izu SC, Itamoto CH, Pradella-Hallinan M et all, (2010), “Obstructive sleep apnea syndrome (OSAS) in mouth breathing children”,

33. Jerome L., Michael C. (2008), “Adenotonsillectomy for obstructive sleep apnoea in children”,

34. Julian R.S, Charlie H., Malcolm P.H (2009), “Alternative methods of adenoidectomy versus curettage in children”,

35. John E. (2008), “Adenoidectomy”,

36. Gray H. (1918), “The mouth”, anatomy of the Human body,

37. Lertsburapa K, Schroeder JW Jr, Sullivan C. (2010), “Assessment of adenoid size: A comparison of lateral radiographic measurements, radiologist assessment, and nasal endoscopy”,

38. Maaike T. (2009), “Adenoidectomy for recurrent or chronic nasal symptoms in children”,

39. Mlynarek A., Marc A., Abdulrahman H., (2004), “Lateral Neck Radiography versus Direct Video Rhinoscopy in Assessing Adenoid Size”

40. Muhammad A.., “Systemic medecine avoids sugery”,

41. Osman B., Refik C., Devrim B. and all, (2005), “ Effects of adenoidectomy in children with symptoms of adenoidal hypertrophy”,

42. [pic][pic][pic][pic][pic][pic]Pasquale C., Matteo G., Michele C., “Adenoid tissue rhinopharyngeal obstruction grading based on fiberendoscopic findings: a novel approach to therapeutic management”,

Bottom of Form

43. Ribens S.S., Rosana C., Jeferson S.D (2005), “Schoolchildren submitted to nasal fiber optic examination at school: findings and tolerance”,

44. Saxby A.J., Chappel C.A. (2009), “Residual adenoid tissue post-curettage: role of nasopharyngoscopy in adenoidectomy”,

45. Sedat A., Arif S., Ozlem C., et all (2008), “Prevalence of adenoid hypertrophy and nocturnal enuresis in primary school children in Istanbul, Turkey”,

46. Takahashi H., Honjo I., Fujita A., Kurata K. (1997), “Effects of adenoidectomy on sinusitis”,

47. Thomas Havas F., David Lowinger F (2002), “Obstructive Adenoid Tissue”, Arch Otolaryngol Head Neck Surg, Page. 789-791.

48. Tramilton L., (2009), “The Side Effects of Adenoidectomy”

49. Ungkanont K, Damrongsak S, (2004), “Effect of adenoidectomy in children with complex problems of rhinosinusitis and associated diseases”,

50. Vulgaris-medical, “végétation adénoid”,

51. Zhang XW, Li Y, Zhou F, Guo CK, Huang ZT (2007), “Comparison of Polygraphic Parameters in Children With Adenotonsillar Hypertrophy With vs Without Obstructive Sleep Apnea”,

PHỤ LỤC

PHIẾU NGHIÊN CỨU

NGHIÊN CỨU ĐẶC ĐIỂM LÂM SÀNG, HÌNH ẢNH NỘI SOI VIÊM AMIDAN VÒM VÀ KẾT QUẢ PHẪU THUẬT NẠO AMIDAN VÒM

Số BA:…….........Ngày vào:……./.…/2010 Ngày mổ:….../.…/2010

Ngày ra:… …./….…/2010 Ngày tái khám:. ……/……/2010

1. PHẦN HÀNH CHÍNH

1.1. Họ và tên bệnh nhân: …………………………………....…………...…….......

1.2. Tuổi:. .................................................. 1.3. Giới: Nam ( Nữ (

1.4. Tên cha mẹ (nếu BN ................
................

In order to avoid copyright disputes, this page is only a partial summary.

Google Online Preview   Download