Có nhiều câu chuyện được lan truyền rằng phải làm ra sao ...
VASILY GROSSMAN - A WRITER AT WAR
Sách viết về người phóng viên Soviet đi cùng Hồng quân trong suốt WW2, từ năm 1941 đến 1945.
Biên dịch: ANTONY BEEVOR (Tác giả cuốn sách Best-selling "Stalingrad") và LUBA VINOGRADOVA
Vasily Semenovich Grossman (1905 - 1964) được xem như 1 vị anh hùng của WW2. "Cuộc đời và số phận" (Life and fate), cuốn tiểu thuyết của ông viết vào năm 1960 về trận chiến Stalingrad, đã bị tuyên bố là mối đe dọa đối với Nhà Nước Soviet và bị KGB tịch thu. 20 năm sau, cuốn sách được bí mật chuyển khỏi Liên Xô bằng microfilm để xuất bản và được hoan nghênh rộng rãi ở Phương Tây.
Các tác phẩm đã được xuất bản bằng tiếng Anh của Grossman:
- LIFE AND FATE
- FOREVER FLOWING
Bản quyền cuốn sách này thuộc về Ekaterina Vasilievna Korotkova Grossman và Elena Fedorovna Kozhichkina.
Bản dịch tiếng Anh, lời tựa và lời nói đầu thuộc bản quyền của Antony Beevor và Luba Vinogradova.
Nhà xuất bản Vintage Book thuộc Random House, Inc. (New York) phát hành tại Mỹ tháng 3/2007.
LỜI TỰA
Vasily Grossman xác lập 1 chỗ đứng vững chắc trong lịch sử văn học thế giới nhờ kiệt tác "Cuộc đời và Số phận", 1 trong những cuốn tiểu thuyết Nga hay nhất trong thế kỷ 20. 1 số nhà phê bình thậm chí xếp cuốn sách này cao hơn cả cuốn "Bác sĩ Zhivago" của Pasternak hay những cuốn tiểu thuyết của Solzhenitsyn.
Cuốn sách "Vasily Grossman - Nhà văn chiến tranh" này căn cứ vào những cuốn sổ ghi chép trong thời chiến của Grossman cũng như các bài viết của ông được lưu trữ tại Cục Lưu trữ Quốc gia Nga về Văn học Nghệ thuật. Chúng tôi cũng sử dụng 1 số thư từ do con gái ông và con trai riêng của vợ ông lưu giữ. Phần lớn nguyên liệu tạo nên các tác phẩm của ông nằm trong những cuốn sổ ghi chép trên cũng như các bài báo của ông. Grossman, phóng viên đặc biệt của tờ báo Hồng quân Krasnaya Zvezda (Sao Đỏ), đã chứng tỏ sự am hiểu sâu sắc và đã tận mắt chứng kiến những gì diễn ra tại tiền tuyến Soviet trong khoảng thời gian từ năm 1941 đến 1945. Ông đã bỏ ra hơn 1.000 ngày trên mặt trận, sự sắc bén trong quan sát của ông, tính nhân văn và trí tuệ của ông là bài học vô giá đối với bất kỳ nhà văn hay nhà sử học nào.
Vasily Grossman sinh tại thị trấn Berdichev (Ukraina) ngày 12/12/1905. Bedichev là 1 trong những cộng đồng Do Thái lớn nhất ở Trung Âu và Grossman được hưởng 1 sự giáo dục rất tốt. Vasily vốn được đặt tên là Iosif, nhưng cũng như nhiều gia đình đã bị đồng hóa với dân bản địa khác, gia đình Grossman cũng Nga hóa tên họ. Cha của ông, tên khai sinh là Solomon Iosifovich, đã đổi tên thành Semyon Osipovich.
Cha mẹ Grossman chia tay khi ông còn nhỏ, ông đã sống tại Thụy Sỹ với mẹ trong 2 năm trước khi WW1 bùng nổ. Năm 1918, ngay sau Cách mạng Tháng 10, ông quay lại Berdichev. Đất nước Ukraina và nền nông nghiệp trù phú của nó đã bị hủy hoại trước hết bởi sự chiếm đóng của quân Đức do Thống chế Von Eichhorn chỉ huy, vùng nông thôn đã bị phá trụi (*). Sau đó, khi quân Đức rút đi vào tháng 11 vì Cách mạng Tháng 10 bùng nổ, cuộc Nội chiến Nga lại bắt đầu với những trận đánh giữa Bạch vệ và Hồng quân. Những người Ukraina theo chủ nghĩa quốc gia và chủ nghĩa vô chính phủ chống lại cả 2 bên. Quân Bạch vệ và quân theo chủ nghĩa quốc gia, đôi khi cả Cận vệ Đỏ, trút lòng hận thù mù quáng vào các cuộc tàn sát người Do Thái khắp Ukraina. 1 số nguồn tin nói rằng khoảng 150.000 người Do Thái, tương đương khoảng 1/3 số dân Do Thái, đã bị giết trong cuộc Nội chiến. Nạn đói diễn ra liên tục từ năm 1920 đến 1922 cũng khiến hàng trăm nghìn người chết chỉ riêng tại Ukraina.
(*) Thống chế Hermann Von Eichhorn (1848 - 1918). Theo những điều khoản Hiệp ước Brest - Litovsk mà Nga phải ký dưới sự Đức ép buộc thô bạo của người Đức, nhiệm vụ của Eichhorn trong năm 1918 là quản lý việc thu hoạch trụi mùa màng tại Ukraina để cung cấp cho các thành phố Đức đang thiếu đói vì bị quân Anh phong toả. Chính sách này đương nhiên gây căm phẫn trong những người Ukraina và Eichhorn đã bị ám sát vào tháng 7/1918.
Grossman theo học Đại học Moscow năm 1923, tại đó ông học ngành hóa học. Ngay từ lúc đó, Grossman đã thể hiện niềm đam mê đối với quân đội. "Nếu chỉ nhìn thoáng qua, cha tôi hoàn toàn là 1 người dân thường", Ekaterina Korotkova, con gái duy nhất của ông nói. "Ai cũng có thể thấy ngay điều đó trong cái cách ông cúi lom khom hay cách ông đeo kính, tay ông cũng rất vụng về lóng ngóng. Lần đầu tiên ông thể hiện sự thích thú với quân đội là khi còn học đại học, ông đã viết trong 1 bức thư rằng nếu ko bị gọi nhập ngũ ông cũng sẽ tình nguyện.
Năm 1928, khi mới 23 tuổi và vẫn còn là sinh viên, ông cưới người bạn gái ở Kiev, Anna Petrovna Matsuk, thường gọi là Galya. Kết quả của mối quan hệ này là 1 bé gái ra đời tháng 1/1930. Họ đặt tên con là Ekaterina, hay Katya, theo tên mẹ của Grossman. Năm 1932, 10 năm sau cuộc Nội chiến là nạn đói tồi tệ do con người tạo ra, chiến dịch chống địa chủ (kulak) và tập thể hóa nông nghiệp cưỡng bức của Stalin là nguyên nhân gây ra nạn đói giết chết hơn 7 triệu người (*). Các bậc cha mẹ phát điên vì đói đến mức ăn thịt chính con cái mình, đó là hình ảnh mang tính biểu tượng về những gì diễn ra trong nạn đói này đã được mô tả trong tác phẩm thơ đáng nhớ "Thế kỷ chó sói" (The wolfhound century) của Osip Mandelstam. Nếu Grossman ko chứng kiến tận mắt hiện thực ghê sợ này thì chắc chắn cũng đã nghe về nó hoặc nhìn thấy những hậu quả, thí dụ như những người ăn xin gầy trơ xương bên các toa tàu hi vọng các hành khác nhân từ quẳng cho họ 1 mẩu bánh mì. Ông đã mô tả lại nạn đói ở Ukraina trong cuốn tiểu thuyết cuối cùng của mình, "Mãi nổi trôi" (Forever Flowing), trong đó có đoạn xử tử 1 phụ nữ bị tố cáo đã ăn thịt 2 đứa con.
Hậu quả chính sách tàn bạo của Stalin đối với khu vực này, theo những gì chính bản thân Grossman nhận thấy, là phần lớn người Ukraina đã vui mừng chào đón đoàn quân xâm lược Đức 1 thập kỷ sau đó. Những người theo chủ nghĩa Stalinist đã lan truyền 1 tin đồn rằng những người Do Thái chịu trách nhiệm về nạn đói này. Đó có lẽ là 1 trong những yếu tố khiến sau này những người Ukraina rất tích cực hợp tác với quân Đức trong việc thảm sát người Do Thái.
(*) Ước tính lớn nhất về số nạn nhân của nạn đói 1930 - 1933 là từ 7,2 đến 10,8 triệu người.
Cuộc sống gia đình của Grossman thường xuyên bị ngắt quãng bởi ông luôn phải ở Moscow nên đã ko kéo dài. Galya bỏ đứa con gái cho mẹ chồng nuôi vì Kiev là trung tâm của nạn đói và đứa trẻ sẽ có cơ hội sống sót hơn khi ở 1 nơi xa xôi là Berdichev. Trong các năm sau này, Katya cũng vẫn thường quay về sống với bà nội.
Việc viết lách bắt đầu cuốn hút Grossman hơn việc học nhưng ông cần 1 việc làm. Trong năm học cuối 1930, ông tới Stalino (nay là Donetsk) ở miền đông Ukraina làm kỹ sư mỏ. Donbass, khu vực bị bao bọc bởi khúc ngoặt gấp của hạ lưu sông Don và Donets là nơi ông đã quay lại trong thời gian chiến tranh, đó là những gì được viết trong các cuốn sổ ghi chép. Năm 1932 Grossman lợi dụng việc mình bị chẩn đoán sai là mắc bệnh lao mãn tính để được chuyển khỏi Stalino về Moscow. Tại đây ông xuất bản cuốn tiểu thuyết đầu tiên, "Gluck auf" (Chúc may mắn), viết khi còn ở mỏ than. Tiếp sau đó là cuốn "Stepan Kolchugin". Mặc dù cả 2 cuốn tiểu thuyết đều viết theo tư tưởng Stalinist phổ biến trong các tác phẩm thời kỳ đó nhưng văn phong hết sức thuyết phục. Truyện ngắn "Ở thị trấn Berdichev" xuất bản tháng 4/1934 đã được Mikhail Bulgakov (*) khen ngợi. Maxim Gorky (**), bậc lão làng của văn học Soviet, mặc dù nghi ngờ khả năng của Grossman khi thấy ông đi theo chủ nghĩa xã hội hiện thực, vẫn cổ vũ cho công việc sáng tác của nhà văn trẻ này. Grossman có thần tượng là các nhà văn Chekhov và Tolstoy, ko bao giờ tỏ ra là 1 tên bồi bút theo chủ nghĩa Stalinist mặc dù ban đầu ông tin rằng chỉ có chủ nghĩa + sản Soviet mới có thể chặn đứng hiểm họa của chủ nghĩa phát xít và chủ nghĩa bài Do Thái.
(*) Mikhail Afanasievich Bulgakov (1891 - 1940), tác giả tiểu thuyết "Cận vệ Trắng" (The White Guard, 1924) được chuyển thể thành nhạc kịch "Thời đại của gia đình Turbin" (The Day of the Turbins, 1926) do Nhà Hát Moscow trình diễn. Thật phi lý, vở kịch mô tả 1 cách hết sức nhân văn giới sĩ quan và trí thức Nga Sa hoàng này lại trở thành 1 vở kịch được Stalin ưa thích. 1 kiệt tác khác của ông, "Giáo sư và Margarita" (The Master and Margarita), dù đã bị sửa chữa nhưng vẫn ko được xuất bản ngay cả khi ông đã qua đời.
(**) Gorky hay Maksim là bút danh của Aleksei Maksimovich Peshkov (1868 - 1936), nhà văn và nhà viết kịch. Gorky là người ủng hộ Cách mạng Tháng 10 và từng là bạn của Lenin, tuy vậy quan điểm độc tài của những người Bolshevik làm ông khó chịu nên đã bỏ sang Tây Âu năm 1921. Stalin bằng các thủ đoạn nịnh bợ đã khéo léo thuyết phục được ông trở về Liên Xô năm 1920, tại đây ông được tiếp đón long trọng. Thành phố Nizhni Novgorod đã được đổi tên thành Gorky để vinh danh ông. Sau khi trở về Gorky trở thành 1 công cụ của chế độ, ông tuyên truyền cổ động cho chủ nghĩa xã hội hiện thực vào tháng 10/1932. Ông là vị cha già của nền văn học Soviet cho đến khi mất.
Tháng 3/1933, người họ hàng đồng thời là người ủng hộ Grossman nhiệt thành, Nadezhda Almaz, bị bắt vì theo chủ nghĩa Trotskist. Grossman bị cơ quan mật vụ OGPU (sau này trở thành NKVD) thẩm vấn. Cả Almaz và Grossman đều có quan hệ với nhà văn Victor Serge (*), người sau này bị trục xuất vào năm 1936 và trở thành 1 người cánh tả chỉ trích Stalin nhiều nhất ở Paris. Cả 2 người đã cực kỳ may mắn. Nadya Almaz bị đi đày, nhận 1 án cải tạo ngắn nhờ đó cô thoát khỏi thời kỳ Đại Khủng bố (Great Terror) diễn ra vào cuối thập kỷ đó. Grossman cũng ko bị đụng tới. Số phận ông có lẽ đã rất khác nếu các cuộc thẩm vấn diễn ra vào 3 hay 4 năm sau.
Cuộc sống của 1 nhà văn, đặc biệt là 1 nhà văn chất phác và ngây thơ về Ctrị như Grossman, đã ko dễ dàng gì trong mấy năm sau đó. Thật kỳ lạ là ông đã sống sót qua được các cuộc thanh lọc, 1 thứ mà sau này Ilya Ehrenburg (**) mô tả chẳng khác gì 1 trò xổ số. Ehrenburg đã nhận xét về sự vụng về và chân thật tự nhiên của Grossman: "Anh ta quá tốt và hết mình vì bạn bè", ông viết, "nhưng đôi khi có thể cợt nhả cả với những phụ nữ 50 tuổi kiểu như: "Chị có vẻ già đi nhiều so với tháng trước". Tôi biết đặc điểm đó của anh ta và ko lấy làm bực mình khi anh ta bất ngờ nhắc: "Anh có vẻ viết lách tệ hơn vì lý do nào đó thì phải.""
Năm 1935, khi cuộc hôn nhân của ông với Galya đã chấm dứt nhiều năm, Grossman bắt đầu 1 mối quan hệ mới với Olga Mikhailovna Guber, 1 phụ nữ to béo lớn hơn ông 5 tuổi. Cũng như Galya, Lyusya, như cách ông gọi bà, là người Ukraina. Boris Guber, chồng bà và cũng là bạn văn của ông, biết được vợ mình say mê Grossman nhưng ko quá cố gắng chống lại việc đó. Là 1 người Nga gốc Đức sinh trưởng trong 1 gia đình nề nếp, Guber đã bị bắt và xử tử năm 1937 trong thời kỳ "Yezhovshchina" (***) điên loạn, tức thời kỳ thanh lọc như cách gọi sau này.
Cùng năm đó, Grossman trở thành thành viên Hội Nhà Văn, 1 tổ chức cung cấp 1 cái mác đảm bảo để những thành viên có thể ngẩng cao đầu. Tuy nhiên tháng 2/1938 thì Olga Mikhailovna bị bắt, có lẽ do đã từng là vợ của Guber. Grossman vội tới thuyết phục các nhà chức trách rằng giờ cô ta là vợ ông dù vẫn giữ tên Guber (phụ nữ Nga lấy chồng thì cải theo tên chồng - Maseo). Ông cũng nhận nuôi 2 con trai của Guber để giúp chúng khỏi bị đưa vào trại trẻ mồ côi dành cho con cái các "kẻ thù của nhân dân". Bản thân Grossman cũng bị thẩm vấn ở Lubyanka ngày 25/02/1938. Mặc dù đã được công nhận ko phải là tội phạm chính trị, ông vẫn phải chứng minh mình hoàn toàn ko có quan hệ gì với Guber trong khi vẫn phải khéo léo để ko phải phản bội bất cứ ai. Ông cũng chấp nhận rủi ro lớn khi viết thư cho Nikolai Yezhov, người đứng đầu NKVD, dũng cảm dẫn lời Stalin để chứng minh rằng vợ mình ko hề chia sẻ bất kỳ tội lỗi nào đã bị quy cho người chồng cũ. Olga cũng được an toàn nhờ sự dũng cảm của Guber, ông đã ko lôi cô vào cuộc dù đã gần như bị buộc phải làm điều đó trong những cuộc thẩm vấn tàn bạo.
Đó là khoảng thời gian các giá trị đạo đức bị làm nhục sâu sắc. Grossman cũng chẳng dám giúp ai như tất cả mọi người. Ông đã đứng trước sự lựa chọn nhưng rồi vẫn ký vào 1 bản tuyên bố ủng hộ việc đưa ra toà về tội phản quốc những người Bolshevik cựu trào và những người "Trotskist - phát xít". Nhưng ông ko bao giờ quên được sự ghê sợ với chúng và đã bộc lộ những áp lực ghê gớm của giai đoạn này trong những đoạn văn quan trọng nhất của cuốn "Cuộc đời và số phận".
Tình trạng khủng bố tồi tệ qua đi có vẻ như nhờ vào việc Stalin ký được hiệp ước với Hitler năm 1939. Grossman đã có thể đi nghỉ suốt mùa hè năm đó ở Biển Đen cùng vợ và các con riêng của vợ tại nhà nghỉ của Hội Nhà Văn. Họ cũng có 1 kỳ nghỉ tương tự vào 5/1941 nhưng ông đã quay lại Moscow 1 tháng sau và có mặt tại Moscow vào thời điểm quân Đức xâm lược Liên Xô ngày 22/6/1941. Như phần lớn các nhà văn khác ông tình nguyện tham gia Hồng quân nhưng Grossman chưa được nhận vì mặc dù mới 35 tuổi nhưng ông hoàn toàn ko đủ sức khoẻ để đi lính.
Những tuần lễ tiếp theo trở nên hết sức khó chịu đối với Grossman, ko chỉ bởi những chiến thắng tưng bừng của người Đức mà còn vì những lý do cá nhân. Ông sống tại Moscow cùng người vợ thứ 2 trong 1 căn hộ nhỏ, với lý do chỗ ở, bà vợ làm ông phát ngấy ko dám đề nghị đưa mẹ ông rời Berdichev lên Moscow sống cùng để có 1 nơi trú ẩn an toàn hơn. 1 tuần sau, khi ông nhận thấy Berdichev đã trở nên nguy hiểm thì đã quá muộn để chuyển mẹ mình đi thoát. Trong mọi trường hợp, vợ ông ko chịu ép mình dưới 1 bà già lẫn cẫn. Grossman, vì lỡ chuyến tàu để tới đưa mẹ về nhà mình, đã tự trách cứ bản thân trong suốt phần đời còn lại. Trong cuốn "Cuộc đời và số phận", nhà vật lý Viktor Shtrum cũng bị tra tấn tinh thần vì phạm sai lầm đúng như vậy.
(*) Victor Serge (1890 - 1947), bút danh của Viktor Kibalchich. Sinh tại Bỉ, là con trai của 1 sĩ quan đội Cận vệ Hoàng gia đã chuyển sang đi theo cách mạng, mẹ là người Bỉ. Serge là 1 người đồng thời theo chủ nghĩa vô chính phủ Pháp, chủ nghĩa tự do và chủ nghĩa xã hội, ông đã tới Nga năm 1918 để tham gia Cách mạng Tháng 10 nhưng cảm thấy khó chịu với chủ nghĩa độc tài Bolshevik. Ông trở nên nổi tiếng với cuốn tự truyện "Ký ức Cách mạng" (Memoirs of a Revolutionary, 1945) và các tiểu thuyết "Men in Prison", "Birth of our Power" và "The Case of Comrade Tulayev".
(**) Iliya Grigorievich Ehrenburg (1891 - 1967), nhà văn, nhà thơ, nhà báo viết cho tờ Krasnaya Zvezda trong thời gian WW2. Sau đó ông làm việc cùng với Grossman trong Uỷ ban người Do Thái chống phát xít để viết cuốn Sách Đen về những tội ác chống người Do Thái, tuy nhiên cuốn sách đã bị chính quyền Stalin tịch thu ngay sau Đại chiến. Ehrenburg là người đặc biệt thính nhạy để thoát khỏi những mối nguy hiểm do chính sách của Stalin.
(***) Đặt theo tên của người đứng đầu NKVD lúc đó là Nikolai Ivanovich Yezhov (1895 - 1939), thường được biết với cái tên "Quỷ Lùn" vì dáng người nhỏ thó và còn thọt chân. Yezhov lên thay Genrikh Yagoda (1891 - 1938) đứng đầu NKVD theo bổ nhiệm của Stalin vào tháng 9/1936. Đến tháng 12/1938 ông ta bị Lavrenty Beria thay thế và phải chịu trách nhiệm vì đã làm quá mức yêu cầu của Stalin. Giống như vị tiền nhiệm của mình là Yagoda, ông ta cũng bị kết án phản quốc và bị xử tử.
Những cuốn sổ bắt đầu được ghi chép từ ngày 5/8/1941 khi Grossman được tướng David Ortenberg, Tổng Biên tập báo Krasnaya Zvezda, gửi ra mặt trận. Mặc dù đó là 1 tờ báo của Hồng quân nhưng mọi người còn đọc nó say sưa hơn cả tờ Izvestia trong suốt thời gian chiến tranh. Stalin khăng khăng đòi kiểm duyệt mọi trang viết trước khi in, điều đó khiến Ehrenburg, đồng sự của Grossman, thường đùa rằng nhà độc tài Soviet này chính là độc giả nhiệt thành nhất của ông.
Ortenberg rất lo rằng Grossman sẽ ko thể sống sót nổi trước sự khắc nghiệt của mặt trận nên đã tìm cho ông những người đồng đội trẻ trung và có kinh nghiệm quân sự để đi cùng. Grossman thường đùa cợt về tình trạng thiếu sức khoẻ để tham gia quân đội và chưa kinh qua huấn luyện quân sự của mình nhưng điều đó diễn ra ko lâu. Trước sự kinh ngạc của những người đồng đội, gã tiểu thuyết gia cận thị đã giảm cân rất nhanh chóng, chịu đựng mọi gian khổ cùng họ và đánh bại họ trong 1 cuộc thi bắn súng ngắn.
"Con sẽ kể cho cha về bản thân con," ông viết cho cha mình tháng 2/1942. "Con hầu như lúc nào cũng di chuyển trong suốt 2 tháng vừa rồi. Có những hôm có khi còn nhiều hơn cả 10 năm hoà bình trước đây cộng lại. Con đã trở nên thanh mảnh, con tự cân mình trong phòng tắm hơi (banya) và thấy chỉ còn 74 kg. Bố có nhớ trọng lượng khủng khiếp của con 1 năm trước ko - 91 kg? Tim con giờ tốt hơn nhiều ... Con đã trở thành 1 lính tuyến đầu (frontoviki) đầy kinh nghiệm. Chỉ 1 tiếng động là con có thể nói ngay cái gì đang diễn ra và ở đâu."
Grossman học mọi thứ về quân sự: chiến thuật, trang bị, vũ khí - và những tiếng lóng của cánh nhà binh là thứ ông đặc biệt say mê. Ông làm việc rất chăm chỉ như ông đã viết rằng ông chỉ có rất ít thời gian cho mọi thứ khác. "Trong suốt cuộc chiến", ông viết sau này, "cuốn sách duy nhất mà tôi đọc là "Chiến tranh và Hoà bình", tôi đã đọc nó 2 lần." Trên tất cả, ông đã chứng minh lòng dũng cảm phi thường ngay tại mặt trận trong khi phần lớn phóng viên chiến trường đều chỉ loanh quanh tại các sở chỉ huy. Grossman, hiển nhiên là 1 thành viên người Do Thái trong giới trí thức Moscow, đã thực sự thắng lợi trong việc giành được sư khâm phục của những người lính Hồng quân bình thường nhất. Đó là 1 kỳ công đặc biệt. Ở Stalingrad ông đã được gặp Chekhov, lính bắn tỉa số 1 của Tập đoàn quân 62 và đã được anh ta chấp nhận cho đi yểm trợ, tại ổ phục kích của Chekhov ông đã được xem anh ta bắn hạ 1 tên Đức và sau đó lại 1 tên nữa.
Ko giống như phần lớn nhà báo Soviet rất hăm hở dẫn lại những khẩu hiệu Ctrị, Grossman bền bỉ đi theo con đường của riêng mình trong kỹ thuật phỏng vấn. Sau này ông cho biết: "Chỉ cần nói chuyện 1 cách lãnh đạm với 1 người lính trong lúc nghỉ là anh ta sẽ tuôn ra mọi thứ có trong đầu, thậm chí chẳng cần đến 1 câu hỏi." Lính trơn bao giờ cũng chiếm số lượng đông nhất và có thể nhanh chóng tìm ra cách chăm sóc bản thân, những mẹo vặt và cả những sai lầm. Grossman chân thật với những sai lầm cũng như với những điều tốt đẹp, và những người lính kính trọng điều đó. "Tôi thích họ", ông viết. "Tôi thích học hỏi từ cuộc sống. Đôi khi những người lính bắt tôi phải tuân lệnh. Tôi biết toàn bộ cuộc sống quân ngũ, ban đầu đó là việc rất khó khăn."
Grossman ko chỉ đóng vai trò 1 nhà quan sát vô cảm. Sức nặng trong những trang viết của ông bắt nguồn từ cảm xúc của chính ông đã có ngay từ năm 1941 đen tối. Sau này ông viết về "nỗi đau buốt nhói, những điềm gở dễ nhận thấy về thương vong sắp tới, hiện thực bi thảm rằng số phận những người mẹ, người vợ, người con đã trở nên gắn chặt với số phận những trung đoàn bị bao vây hay những đội quân đang rút lui. Làm sao có thể quên được những ngày đó - Gomel và Chernigov chìm trong lửa, Kiev sụp đổ, những đoàn xe rút chạy, những trái hoả tiễn màu xanh lá cây chứa hơi độc bay qua những khu rừng và sông ngòi lặng câm?" Grossman đi theo những đồng đội của mình và đã được chứng kiến Gomel bị phá huỷ, sau đó họ chạy về phía nam khi Quân đoàn Thiết giáp 2 của tướng Đức Guderian tung 1 mũi tấn công theo 1 vòng tròn rộng để bao vây Kiev. Quân Đức đã bắt sống hơn 600.000 tù binh trong 1 thắng lợi giòn giã chưa từng thấy.
Đầu tháng 10, Grossman được giao đi theo sở chỉ huy Tập đoàn quân 50 của tướng Petrov. Mô tả của ông về viên tướng này, người sẵn sàng đấm các thuộc hạ, vừa uống trà và ăn mứt mâm xôi vừa ký lệnh xử bắn, nghe như 1 chuyện châm biếm đáng sợ đối với Hồng quân, nhưng cực kỳ chính xác. Sự chân thật đến mức khó chịu của ông là 1 mối nguy hiểm. Nếu mật vụ NKVD đọc được những cuốn sổ ghi chép này ông sẽ bị tống vào chỗ giam giữ bọn Gulag. Grossman ko phải là Đảng viên, điều đó lại có tác dụng làm giảm sự nghi ngờ đối với vị trí của ông.
Grossman lại 1 lần nữa suýt bị các đơn vị thiết giáp của Guderian bao vây khi ông tới thành phố Orel nơi sau đó Phương diện quân Bryansk bị vây. Ông đã mô tả chuyến đi đó như 1 câu chuyện thú vị nhất trong những lần thoát chết của mình. Grossman và các đồng sự trở lại Moscow trong tình trạng kiệt sức, chiếc xe "Emka" lỗ chỗ vết đạn là minh chứng cho những nguy hiểm mà họ đã phải trải qua. Nhưng Ortenberg đã lệnh cho họ quay lại mặt trận. Đêm đó, để tìm tới 1 sở chỉ huy tập đoàn quân, họ tí nữa đã lái xe vào 1 vị trí quân Đức. Là 1 người Do Thái, số phận của Grossman nếu vậy đã cáo chung.
Vào mùa đông năm 1941 đó, sau khi quân Đức rút lui khỏi ngoại vi Moscow, Grossman được lệnh theo dõi chiến sự xa hơn về phía nam, tại vùng đông Ukraina gần Donbass, nơi ông đã biết rất rõ trong những năm trước chiến tranh. Ông bắt đầu chuẩn bị cho 1 cuốn tiểu thuyết vĩ đại về năm đầu tiên của cuộc chiến, cuốn sách sau đó được đăng suốt đầu mùa hè năm 1942 trên tờ Krasnaya Zvezda dưới dạng truyện dài kỳ. Mạch truyện dồn dập như đời thực của 1 frontoviki, lính tiền tuyến Hồng quân, và danh tiếng của Grossman nổi như cồn khắp Liên Xô, ông cũng nhận được sự kính trọng trong giới văn chương.
Tháng 8/1942, Tập đoàn quân 6 Đức tiến về phía Stalingrad, Grossman được lệnh tới thành phố đang bị đe doạ này. Ông đã có thời kỳ phục vụ với tư cách nhà báo lâu dài nhất tại đây, trong trận phòng thủ thành phố. Ortenberg, người có quan hệ ko mấy tốt đẹp với ông, cũng công nhận tài năng phi thường của ông: "Tất cả các phóng viên tại Phương diện quân Stalingrad đều kinh ngạc với những gì Grossman đã làm với tướng Gurtiev, 1 viên sư trưởng thầm lặng và kín đáo người Siberi. Họ đã nói chuyện với nhau 6h liền ko nghỉ, tướng Gurtiev đã nói ra tất cả những gì Grossman cần biết, trong 1 thời điểm ác liệt bậc nhất (của trận chiến). Tôi biết chính thói quen ko bao giờ ghi chép bất kỳ điều gì trong suốt cuộc phỏng vấn đã giúp Grossman khiến mọi người bộc lộ tâm sự. Ông sẽ viết lại tất cả sau đó, khi đã quay về sở chỉ huy hoặc Izba (nhà nhỏ xây bằng gỗ súc - Maseo) của cánh phóng viên. Khi mọi người đã đi ngủ, Grossman dù rất mệt mỏi vẫn ngồi viết lại tỉ mỉ mọi thứ vào những cuốn sổ của ông. Tôi biết việc đó và đã từng xem vài cuốn sổ ghi chép khi tới Stalingrad. Tôi thậm chí phải nhắc ông quy định tuyệt đối cấm giữ nhật ký và dặn ông ko bao giờ được viết những thông tin gì được coi là bí mật vào đó. Ko chỉ đến khi ông chết tôi mới có cơ hôi đọc những gì ông viết. Các ghi chép đều cực kỳ xúc tích. Điểm đặc trưng của cuộc sống trong chiến tranh là có thể hiểu rõ mọi thứ chỉ trong 1 vài từ, giống như tấm giấy ảnh hiện lên mọi hình ảnh khi được in tráng. Trong các cuốn sổ ghi chép của ông mỗi người có thể tìm thấy nguyên vẹn sự thật." Đó là Stalingrad nơi mà Grossman đã mài giũa khả năng mô tả của mình: "Mùi vị thường thấy ở tuyến đầu - đó là cái mùi trộn lẫn giữa mùi của nhà xác và của lò rèn."
Với Grossman, trận Stalingrad chắc chắn là 1 trong những kinh nghiệm sống quan trọng nhất. Trong cuốn "Cuộc đời và Số phận", sông Volga là 1 sợi chỉ đỏ xuyên suốt cuốn sách, nó chính là huyết mạch giao thông chính để nước Nga bơm nhựa sống cho Stalingrad. Grossman, giống như nhiều đồng chí của mình, nhiệt thành tin rằng chủ nghĩa anh hùng của các chiến sĩ Hồng quân tại Stalingrad sẽ ko chỉ giúp nước Nga chiến thắng mà còn làm thay đổi xã hội Soviet mãi mãi. Chiến thắng bọn phát xít được tạo nên bởi sự đoàn kết mạnh mẽ giữa mọi người, họ tin rằng NKVD, các cuộc thanh trừng, các phiên toà và bọn địa chủ Gulag sẽ chỉ còn là lịch sử. Các sĩ quan và binh lính trên mặt trận, với sự tự do của người ko còn gì để mất, nói bất kỳ điều gì họ muốn, thoải mái phê phán cuộc tập thể hoá nông nghiệp tàn khốc, sự ngạo mạn của những vị tai to mặt lớn và sự khoác lác trơ trẽn của hệ thống tuyên truyền Soviet. Sau này Grossman mô tả chúng trong cuốn "Cuộc đời và Số phận" thông qua phản ứng của chính uỷ Krymov: "Từ khi đến Stalingrad, Krymov đã có 1 cảm giác kỳ lạ. Đôi khi đó là suy nghĩ anh ta như thể đang ở trong 1 vương quốc nơi Đảng ko tồn tại; đôi khi đó lại là cảm giác như thể anh ta đang hít thở bầu ko khí của những ngày đầu tiên sau Cách mạng Tháng 10." 1 số ý kiến lạc quan và khát vọng xuất hiện với sự khuyến khích ngấm ngầm của chính nhà cầm quyền Soviet, nhưng ngay sau khi chiến cuộc đã rõ ràng, Stalin bắt đầu siết chặt mọi thứ trở lại như cũ.
Nhà độc tài Soviet, người luôn giữ mối quân tâm sát sao tới giới văn sĩ, bắt đầu tỏ vẻ ko thích Grossman. Ilya Ehrenburg cho rằng Stalin nghi ngờ Grossman hơi quá ngưỡng mộ chủ nghĩa quốc tế kiểu Lenin (gần với chủ nghĩa Trotskist, đó là 1 tội lỗi). Nhưng cũng còn lâu người đứng đầu nhà nước Soviet mới thực sự ghét Grossman vì ông ko bao giờ công kích sự sùng bái cá nhân đối với nhà độc tài này. Stalin gần như ko xuất hiện trong các tác phẩm Grossman viết trong quãng đời làm báo, lần duy nhất có nhắc đến ông là trong tác phẩm "Cuộc đời và Số phận" viết sau khi nhà độc tài đã qua đời, trong đó Stalin gọi 1 cú điện thoại lúc nửa đêm cho nhân vật Viktor Shtrum. Đó là 1 đoạn văn đáng nhớ và đáng sợ bậc nhất trong bất kỳ cuốn tiểu thuyết nào, có lẽ được lấy cảm hứng từ cú điện thoại có thật mà người đứng đầu điện Kremlin gọi cho Ehrenburg vào 1 đêm tháng 4/1941.
Tháng 1/1943, Grossman được lệnh rời Stalingrad. Ortenberg đã giao Konstantin Simonov theo dõi đoạn kết kịch tính của trận đánh này. Nhà báo trẻ bảnh trai Simonov là 1 đại anh hùng theo con mắt Hồng quân và phần lớn sự trọng thị đó có được là nhờ ông là tác giả bài thơ "Đợi anh về" (*). Bài thơ này được viết năm 1941 ngay sau khi chiến tranh nổ ra, khi ông phải chia tay mối tình lớn của mình, nghệ sĩ Valentina Serova. Bài thơ và bài hát phổ từ lời bài thơ này trở thành thiêng liêng với nhiều người lính Hồng quân, với ý chính là chỉ có tình yêu và sự chung thuỷ của những người vợ hay người yêu mới có thể giữ được mạng sống cho người lính. Nhiều người đã giữ những bản chép tay bài thơ này trong nếp gấp túi ngực như 1 lá bùa may mắn.
Grossman, người đã ở Stalingrad lâu hơn bất kỳ phóng viên nào khác, cảm thấy quyết định đó như 1 sự phản bội. Ortenberg đã gửi ông tới Kalmykia, gần 300km về phía nam Stalingrad, nơi vừa được giải phóng khỏi ách chiếm đóng của bọn Đức. Điều này trong thực tế lại cho Grossman 1 cơ hội nghiên cứu về vùng đất này trước khi các tiểu đoàn cảnh vệ NKVD của Lavrenty Beria tới tiến hành các hành động trả thù bằng cách trục xuất 1 số lượng lớn dân địa phương còn nhiều hơn cả những người được xem là trung thành với chính quyền nhân dân. Ông ghi chép lại về ách chiếm đóng của bọn Đức và mức độ cộng tác với quân địch nhiều đến mức đáng buồn của cư dân địa phương, số người bộc lộ sự chấp nhận và bị cám dỗ bởi quân địch đến mức gần như thời nội chiến.
Trong năm sau ông có mặt tại Trận Kursk, trận đấu tăng lớn nhất trong lịch sử, trận đánh đã chấm dứt khả năng quân đội Đức (Wehrmacht) có thể mở 1 cuộc phản công lớn cho đến trận Ardennes tháng 12/1944. Tháng 1/1944, khi đi theo Hồng quân tiến về phía tây xuyên qua Ukraina, Grossman cuối cùng đã tới Berdichev. Tại đó nỗi lo sợ của ông đối với số phận mẹ mình và những người thân thiết đã thành hiện thực. Họ đã bị giết tại 1 trong những vụ đại thảm sát người Do Thái đầu tiên, chỉ ngay sau vụ đại tàn sát ở hẻm núi Babi Yar, ngoại vi Kiev. Vụ tàn sát người Do Thái tại thị trấn nơi ông sinh ra và lớn lên khiến ông tự trách mình còn nhiều hơn khi ko đón được mẹ năm 1941. Cú shock tăng thêm khi ông phát hiện ra chính những người hàng xóm Ukraina cũng đóng vai trò trong việc bức hại người Do Thái. Grossman đã kiên quyết tìm ra càng nhiều càng tốt những vụ thảm sát người Do Thái (Holocaust), 1 đề tài mà chính quyền Soviet cố gắng bưng bít. Phương châm của những người theo chủ nghĩa Stalinist là người Do Thái ko được xem là 1 nạn nhân đặc biệt. Những tội ác chống lại họ phải được đặt trong tổng thể những tội ác chống Liên Xô.
Ngay sau khi Hồng quân tiến vào đất Ba Lan, Grossman là 1 trong những phóng viên đầu tiên tới trại tập trung chết chóc Majdanek gần Lublin. Sau đó ông tới lò sát sinh Treblinka, đông bắc Warsaw. Bài viết "Địa ngục mang tên Treblinka" (The Hell Called Treblinka - ) là 1 trong những tác phẩm văn học quan trọng nhất về nạn thảm sát người Do Thái và được trích dẫn trong phiên toà Nuremberg.
Khi tiến vào Berlin năm 1945, Grossman được sắp xếp đi theo Tập đoàn quân 8 Cận vệ, tiền thân là Tập đoàn quân 62 lừng danh ở Stalingrad, và ông 1 lần nữa dành thời gian bên vị chỉ huy của nó, tướng Chuikov. Grossman thật sự đau đớn nhận ra mình đã ghi lại những hành động tội lỗi của Hồng quân cũng nhiều chẳng kém những hành động anh hùng, trên hết là những vụ hiếp dâm hàng loạt phụ nữ Đức. Mô tả của ông về vụ cướp bóc Schwerin đã gây tác động mạnh và sự thương tâm đối với tất cả những người chứng kiến sự việc. Tương tự, những cuốn sổ ghi chép của ông tại Berlin khi ông ở đó theo dõi cuộc chiến trong thành phố và thắng lợi cuối cùng, đáng được mọi độc giả quan tâm. Thực sự Grossman đã nhìn thấy nhiều điều về cuộc chiến tại mặt trận phía Đông hơn bất kỳ ai và những ghi chép của ông là vô giá. "Tôi nghĩ rằng ai chưa trải qua tất cả sự cay đắng của mùa hè năm 1941," ông viết, "sẽ ko bao giờ có thể đánh giá đầy đủ sự vui mừng trước chiến thắng của chúng tôi". Đó ko phải lời khoe khoang, đó đơn giản là sự thật.
Những trang viết trong các cuốn sổ ghi chép của ông cùng với 1 số bài viết và trích đoạn trong các bức thư được trình bày trong cuốn sách này ko chỉ là nguyên liệu viết văn của 1 tác giả vĩ đại. Hơn thế nữa nó còn là câu chuyện của 1 nhân chứng hàng đầu về sự ác liệt của mặt trận phía Đông, có lẽ lời đánh giá chính xác nhất về nó là câu nói của chính Grossman: "Sự thật tàn nhẫn của chiến tranh".
(*) Konstantin (Kyrill Mikhailovich) Simonov (1915 - 1979), nhà thơ, nhà viết kịch, tiểu thuyết gia và nhà báo của tờ Krasnaya Zvezda. Sau này Simonov viết cuốn tiểu thuyết về Trận Stalingrad mang tựa đề "Ngày và Đêm" (Days and Nights) theo phong cách Hemingway, xuất bản năm 1944. Mặc dù là 1 người dũng cảm bẩm sinh, Simonov, như những gì Grossman kể lại sau này, tỏ ra thiếu dũng khí trong các mối quan hệ với nhà cầm quyền Soviet.
HẾT LỜI TỰA
LỜI NGƯỜI DỊCH
Việc dịch thuật từ tiếng Nga hướng tới mục tiêu có 1 bản dịch Anh ngữ dễ đọc nên có đôi chút cô đọng hơn so với bản gốc, 1 số từ ko cần thiết hoặc lặp lại có thể bị bỏ đi. Điều này đặc biệt hay gặp trong các văn bản mang tính hành chính trang trọng của quân đội Nga, nhưng chúng tôi có dịch nguyên bản đối với những đoạn Grossman rõ ràng có ý giễu cợt phong cách truyền thống để truyền đạt hết sự hấp dẫn. Chắc chắn trong các thuật ngữ của Hồng quân ko có các từ như "tankist", "artillerist" (lái tăng, pháo thủ - Maseo) trong các văn bản chính thức. Các tên riêng tiếng Nga và từ viết tắt sẽ được liệt kê trong phần Chú giải.
Khi nói về đối phương, Hồng quân thường gọi là "nó" chứ ko phải là "bọn chúng". Điều này có thể gây khó khiểu trong nhiều trường hợp, vì vậy chúng tôi tránh dịch đúng từng chữ mà thay bằng "bọn chúng" hoặc "bọn Đức".
Chúng tôi cố gắng cung cấp thông tin đến mức chi tiết về phần lớn các nhân vật được liệt kê trong cuốn sách, tuy nhiên đã ko thể tiếp cận được thông tin về các đồng sự của Grossman ở tờ Krasnaya Zvezda vì hồ sơ cá nhân của họ vẫn được bảo mật do tờ báo là 1 đơn vị trực thuộc quân đội.
Điều khó khăn nhất, đặc biệt khi phải làm việc với những đoạn viết rời rạc, là đạt được sự cân bằng giữa việc thêm thắt các đoạn viết giúp người đọc bình thường hiểu được và sự tôn trọng đối với ghi chép gốc. Chúng tôi đã cố gắng giữ lại mọi ghi chú nhưng trong 1 số trường hợp phải đưa vào trong ngoặc đơn thay vì đưa vào chú thích cuối trang.
CHÚ GIẢI
Phương diện quân: cấp tổ chức quân đội Soviet tương đương Cụm Tập đoàn quân, ví dụ Phương diện quân Trung tâm, Phương diện quân Tây hay Phương diện quân Stalingrad. Mỗi Phương diện quân ở giai đoạn cuối WW2 do 1 đại tướng hoặc nguyên soái chỉ huy và thường gồm từ 4 đến 8 tập đoàn quân.
Frontoviki: lính Hồng quân có kinh nghiệm chiến đấu thực tế trên tuyến đầu.
GLAVPUR (Glavnoye politicheskoye upravleniye): bộ phận phụ trách công tác Ctrị trong Hồng quân, trong phần lớn thời gian diễn ra cuộc Chiến tranh Vệ Quốc Vĩ đại do Aleksandr Shcherbakov đứng đầu. Đó là 1 tổ chức của Đảng + sản điều khiển các sĩ quan Ctrị và các Chi bộ - hệ thống Chính uỷ đầu tiên được thiết lập trong thời kỳ Nội chiến Nga để theo dõi các cấp chỉ huy mà nhiều người trong số đó vốn là sĩ quan quân đội Nga Sa hoàng để đảm bảo rằng họ ko bí mật hợp tác với quân Bạch vệ. Chính uỷ hay Chính trị viên ko trực thuộc NKVD nhưng làm việc với NKVD trong những trường hợp có nghi ngờ chống đối.
Sao Vàng: cách gọi dân dã của danh hiệu Anh hùng Liên Xô.
Anh hùng Liên Xô: phần thưởng cao nhất của Liên Xô cho sự phục vụ dũng cảm và phẩm chất đặc biệt, gồm 1 cái cuống bằng vàng buộc ruy băng đỏ treo 1 ngôi sao bằng vàng.
Izba: nhà của nông dân hoặc cabin làm bằng gỗ xúc, thường gồm 1 đến 2 phòng. Khung cửa sổ thường được trang trí bằng những hình chạm khắc.
Komsomol: tên viết tắt của Đoàn TNCS, các thành viên có tuổi đời khoảng đôi mươi, vì vậy có rất nhiều chi đoàn Komsomol hoạt động trong Hồng quân. Trẻ em thì tham gia vào Đội Thiếu niên Tiền phong (Young Pioneers).
Muzhik: nông dân Nga chính hiệu.
NKVD (Narodnyi Komissariat Vnutrennikh Del - Dân uỷ Nội vụ): tiền thân là mật vụ Cheka và OGPU.
Đặc vụ NKVD: Được đưa vào biên chế Hồng quân làm nhiệm vụ phản gián, đó là 1 tổ chức của những người theo chủ nghĩa Stalinist chuyên tìm những kẻ phản quốc và gián điệp. Công việc của họ cũng bao gồm điều tra về những hành động hèn nhát cũng như các "sự vụ bất thường" - tất tật những gì được cho là chống lại nhà nước Soviet - và đóng vai trò đội hành quyết nếu cần. Mùa xuân năm 1943 các đơn vị đặc vụ này được đổi thành lực lượng SMERSh, cách viết tắt của Stalin đối với từ Smert shpionam - Cái chết cho bọn gián điệp.
OBKOM: từ viết tắt của Đảng uỷ 1 vùng.
Sĩ quan chính trị hay chính trị viên, chính uỷ: xem GLAVPUR.
RAIKOM: từ viết tắt của Đảng uỷ địa phương.
Stavka (Tổng hành dinh): hội đồng tướng lĩnh, tên này vốn dành cho các chỉ huy quân Nga Sa hoàng trong WW1 được Stalin dùng lại. Ông ta - đương nhiên - là người đứng đầu.
Ushanka: kiểu mũ lông Nga phổ biến có vành che quanh đầu.
Valenki: loại ủng lớn làm bằng dạ, chuyên dùng đi tuyết.
PHẦN MỘT
CÚ SỐC CỦA CUỘC XÂM LƯỢC
1941
MỘT
THỬ LỬA
Cuộc xâm lược của Hitler vào Liên Xô bắt đầu vào buổi sớm ngày 22/6/1941. Stalin ko thể tin rằng mình có thể bị lừa nên đã bỏ qua hơn 80 tin tức cảnh báo. Mặc dù người đứng đầu Soviet ko tỏ ra suy sụp sau đó, ông đã hoàn toàn mất phương hướng khi nhìn nhận rõ sự thật, thể hiện qua giọng nói vụng về khi đọc bản thông cáo do Ngoại trưởng Vyacheslav Molotov thảo trên đài phát thanh vào buổi trưa hôm đó. Những người dân Liên Xô đã tỏ ra cứng rắn hơn các nhà lãnh đạo, họ xếp hàng tình nguyện ra mặt trận.
Vasily Grossman, 1 người cận thị, béo phì, đi bộ phải chống gậy đã tỏ ra thất vọng khi bị trạm tuyển quân đuổi ra. Chắc ông cũng chẳng lấy gì làm ngạc nhiên nếu xét đến tình trạng thể chất bất hợp lý của mình. Gossman mới chỉ giữa đầu băm, vậy mà các cô gái ở căn hộ bên cạnh đã gọi ông là "chú".
Trong vài tuần tiếp theo ông đã thử xin vào làm đủ loại công việc có liên quan đến chiến tranh. Nhà chức trách Soviet lúc này thu được quá ít thông tin về những gì thực sự xảy ra ở tiền tuyến. Chẳng ai nói được gì về lực lượng Đức ngoài việc chúng có hơn 3 triệu quân, chia cắt Hồng quân bằng những mũi thiết giáp thọc sâu, sau đó bắt sống hàng trăm ngàn tù binh trong các vòng vây. Chỉ có tên những thành phố được liệt kê trong các bản tin chính thức cho biết quân địch đã tiến nhanh đến mức nào.
Grossman đã trù trừ ko giục mẹ mình rời bỏ thị trấn Berdichev ở Ukraina về ở với ông. Người vợ thứ 2 của ông, Olga Mikhailovna Guber, đoan chắc với ông rằng họ chẳng còn phòng nào cho bà mẹ. Sau đó, trước khi Grossman biết được chuyện gì đang thực sự xảy ra, Tập đoàn quân 6 Đức đã chiếm được Berdichev ngày 7/7. Quân địch đã tiến hơn 350km chỉ trong có hơn 2 tuần. Grossman đã ko cứu được mẹ mình, điều đó đè nặng ông trong suốt phần đời còn lại, thậm chí ngay cả sau khi ông khám phá ra rằng bà đã ko chịu sơ tán vì chẳng còn ai khác chăm sóc cho 1 đứa cháu họ. Grossman cũng vô cùng lo lắng cho số phận của Ekaterina, hay Katya, con của ông với người vợ đầu. Ông ko hề biết rằng cô bé đã được đưa khỏi Berdichev để đi nghỉ hè.
Tuyệt vọng vì chẳng được ai giúp cho tham chiến, Grossman đến quấy rầy cả Tổng Cục Ctrị Hồng quân, thường được biết tới với cái tên viết tắt GLAVPUR, thậm chí ngay cả khi ông ko phải là Đảng viên. Tổng biên tập tương lai của ông, David Ortenberg, 1 chính uỷ có hàm tương đương cấp tướng, sau này kể lại cách mà ông được nhận vào làm cho tờ Krasnaya Zvezda, tờ báo của quân đội Soviet được đọc nhiều hơn bất kỳ tờ báo nào khác trong suốt thời gian chiến tranh (*):
Tôi còn nhớ Grossman đã gây rối khi lần đầu tiên xuất hiện ở ban biên tập. Đó là vào cuối tháng 7, tôi tạt qua Tổng Cục Ctrị và được nghe kể rằng Vasily Grossman đang yêu cầu họ cho mình ra mặt trận. Tất cả những gì tôi biết về nhà văn này là ông ta đã viết tiểu thuyết "Stepan Kolchugin" về vùng Donbass.
"Vasily Grossman à?" Tôi nói. "Tôi chưa từng gặp anh ta, nhưng tôi biết Stepan Kolchugin. Hãy giao anh ta cho tờ Krasnaya Zvezda."
"Được thôi, nhưng anh ta chưa bao giờ phục vụ trong quân đội, anh ta chẳng biết gì về quân đội cả. Liệu anh ta có phù hợp với tờ Krasnaya Zvezda ko?"
"Mọi thứ sẽ đâu vào đấy," tôi nói, tôi cố thuyết phục họ. "Anh ta hiểu biết về tâm hồn con người."
Tôi ko để họ yên cho đến khi Dân uỷ phụ trách Tổng Cục ký lệnh nhập ngũ cho Vasily Grossman gia nhập Hồng quân và cử anh ta về tờ báo của tôi. Đó là 1 vấn đề. Anh ta mới là cấp binh nhì, hoặc như Ilya Ehrenburg thường đùa về trường hợp của cả anh ta và Grossman, "binh nhì chưa được huấn luyện". Cũng ko thể thăng anh ta lên cấp sĩ quan hay chính uỷ vì anh ta ko phải Đảng viên. Nhưng cũng thật khó mà để anh ta mặc quân phục binh nhì vì anh ta sẽ phải dành tới 1 nửa thời gian để giao thiệp với các nhân vật cao cấp. Tất cả những gì chúng tôi có thể làm là xếp anh ta vào ngạch sĩ quan hậu cần. 1 số nhà văn của chúng tôi như Lev Slavin, Boris Lapin và thậm chí nhiều khi là cả Konstantin Simonov cũng trong tình trạng tương tự. Cái phù hiệu màu xanh lá trên cổ áo họ thường gây nhiều rắc rối vì lính cứu thương cũng mang phù hiệu giống như vậy, điều đó luôn gây ra nhầm lẫn. Dù gì đi nữa, ngày 28/7/1941 tôi cũng đã ký lệnh: "Sỹ quan hậu cần cấp 2 Vasily Grossman được cử làm phóng viên đặc biệt của tờ Krasnaya Zvezda với mức lương 1.200 rup/tháng".
Ngày hôm sau Grossman trình diện tại ban biên tập. Anh ta nói với tôi rằng mặc dù lệnh điều động này thật bất ngờ nhưng anh ta rất hạnh phúc về việc đó. Vài ngày sau anh ta trở lại sau khi đã được trang bị đầy đủ và vận bộ đồng phục sĩ quan. (Áo khoác của anh ta nhăn nhúm, kính đeo trễ trên mũi, và khẩu súng ngắn đeo trên chiếc thắt lưng ko cài nổi trong chẳng khác gì 1 chiếc rìu.)
"Tôi đã sẵn sàng khởi hành ra mặt trận ngay hôm nay," anh ta nói.
"Hôm nay á?" Tôi hỏi. "Nhưng anh có bắn được cái đó ko?" Tôi chỉ vào khẩu súng ngắn đeo bên hông anh ta.
"Ko."
"Còn súng trường?"
"Ko, tôi ko biết bắn cả 2 thứ."
"Vậy làm sao mà tôi cho anh ra mặt trận được? Mọi thứ đều có thể xảy ra ở đó. Ko, anh sẽ phải ở lại ban biên tập trong vài tuần."
Đại tá Ivan Khitrov, chuyên gia về chiến thuật và là 1 cựu sỹ quan quân đội, trở thành huấn luyện viên của Grossman. Ông ta đưa Grossman tới 1 trường bắn của 1 đơn vị quân đội đóng tại Moscow để dạy bắn.
(*) David I. Ortenberg, lấy bút danh phi Do Thái là Vadimov khi viết cho tờ Krasnaya Zvezda.
Ngày 5/8, Ortenberg chấp thuận cho Grossman ra mặt trận. Ông sắp xếp cho Grossman đi cùng Pavel Troyanovsky, 1 phóng viên đầy kinh nghiệm, và phóng viên ảnh Oleg Knorring. Grossman miêu tả khá chi tiết về chuyến khởi hành của họ.
Chúng tôi được lệnh đi về hướng Phương diện quân Trung tâm. Chính trị viên Troyanovsky, nhà quay phim Knorring và tôi sẽ tới Gomel. Troyanovsky có khuôn mặt đen sạm mỏng dính và cái mũi to đã từng được tặng thưởng huân chương "Vì thành tích trong chiến trận". Anh ta đã được thấy nhiều thứ mặc dù chưa già, thực tế anh ta trẻ hơn tôi cả chục tuổi. Mới đầu tôi đã nghĩ Troyanovsky là 1 người lính thực thụ, 1 người sinh ra để chiến đấu, nhưng hoá ra anh ta mới ra trường và làm phóng viên cho tờ Pionerskaya Pravda (tờ báo của Đội Thiếu niên Tiền phong) từ cách đây chưa lâu. Tôi cũng phải nói rằng Knorring là 1 phóng viên ảnh giỏi. Anh ta cao, trẻ hơn tôi 1 tuổi. Tôi già hơn cả 2 người kia nhưng ở bên họ tôi chỉ là 1 đứa bé trong những vấn đề liên quan đến chiến tranh. Họ đã tiếp đón tôi ko chê vào đâu được và cảnh báo tôi về sự kinh khủng đang chờ đón.
Chúng tôi sẽ khởi hành ngày hôm sau bằng tàu hoả. Chúng tôi ngồi toa ghế mềm tới Bryansk rồi từ đó đi tiếp bằng bất kỳ phương tiện gì mà Chúa gửi đến cho chúng tôi. Trước chuyến đi chúng tôi được Chính uỷ Lữ đoàn Ortenberg thông báo vắn tắt, ông nói chuyến đi đã được sắp đặt sẵn. Lần đầu tiên ông và tôi gặp nhau là ở GLAVPUR, Ortenberg đã phỏng vấn tôi và cuối cùng nói trước đây ông cứ tưởng tôi là 1 nhà văn chuyên viết sách thiếu nhi. Điều đó làm tôi rất ngạc nhiên, tôi đâu có nói là tôi đã từng viết cuốn sách nào cho thiếu nhi đâu. Khi chúng tôi tạm biệt nhau tôi bảo: "Tạm biệt, Chính uỷ Boev." Ông ta bật cười: "Tôi ko phải Boev, tôi là Ortenberg." Vâng, đó là 1 hành động trả đũa, tôi vờ nhầm ông ta với Cục trưởng Cục Xuất Bản của GLAVPUR.
Tôi nhậu nhẹt suốt ngày hôm đó như những tân binh vẫn làm trước khi lên đường ra mặt trận. Cha tôi tỏ ra bối rối, cả Kugel, Vadya, Zhenya và Veronichka nữa. Veronichka nhìn tôi bằng đôi mắt buồn rười rượi, như thể tôi là Gastello vậy (*). Tôi đã rất xúc động. Cả gia đình ca hát và nói chuyện 1 cách buồn bã, đặc quánh 1 ko khí u sầu. Đêm đó tôi nằm 1 mình suy nghĩ, tôi có khá nhiều thứ, nhiều người để suy nghĩ về.
Ngày chúng tôi lên đường là 1 ngày thú vị, nóng và có mưa. Nắng và mưa thay thế nhau 1 cách đột ngột, mặt đường ướt sũng, chỗ lấp lánh chỗ xám đen lại. Ko khí nóng bức, ngột ngạt và ẩm ướt. 1 cô gái xinh đẹp tên là Marusya tới tiễn Troyanovsky. Cô ta làm ở ban biên tập (của tờ Krasnaya Zvezda) nhưng cô nhìn anh ta ra đi như thể anh ta đang tuột khỏi vòng tay cô chứ ko phải theo lệnh của Tổng Biên tập. Knorring và tôi cố tỏ vẻ lịch sự, chúng tôi tránh ko nhìn vào chỗ họ.
Sau đó chỉ còn lại 3 chúng tôi (trên sân ga). Tôi có nhiều kỷ niệm với ga xe lửa Bryansky, đó là nơi tôi xuống trong lần đầu tiên đến Moscow. Rất có thể chuyến đi từ đây ngày hôm nay sẽ là chuyến cuối cùng. Chúng tôi uống nước chanh và ăn mấy cái bánh ghê tởm trong quán cà phê ga.
Đoàn tàu rời ga. Tất cả những cái tên nhà ga dọc đường đều rất quen thuộc. Tôi đã đi qua chúng nhiều lần khi còn là sinh viên, để về với mẹ ở Berdichev hay để đi nghỉ. Lần đầu tiên sau thời gian dài tôi đã có thể ngủ ngon trên toa ghế mềm này sau những trận oanh tạc vào Moscow.
(Sau khi tới Bryansk) chúng tôi nghỉ đêm ngay tại sân ga. Chỗ nào cũng đầy lính Hồng quân, nhiều người trong số họ ăn mặc rất tồi tàn, rách rưới, rõ ràng họ đã từng "ở đó". Những người Abkhazia trông có vẻ tệ nhất, nhiều người còn đi chân ko.
Chúng tôi đã phải ngồi suốt đêm. Máy bay Đức xuất hiện trên nhà ga, gầm rú trên bầu trời, đèn pha phòng ko chiếu khắp nơi. Tất cả chúng tôi lao về phía những khu đất bỏ hoang càng xa nhà ga càng tốt. May thay, bọn Đức ko ném bom chúng tôi ở đây, chúng chỉ làm chúng tôi sợ hãi 1 phen. Sáng ra chúng tôi nghe tin tức từ Moscow qua đài phát thanh, đó là tin về 1 hội nghị do Lozovsky (Cục trưởng Thông tin Soviet) chủ trì. Âm thanh rất tồi, chúng tôi phải lắng nghe, Lozovsky sử dụng rất nhiều cách ngôn thành ngữ như thường lệ, nhưng chúng chẳng làm chúng tôi có cảm giác nhẹ nhàng hơn.
Chúng tôi tới khu bốc dỡ hàng hoá để tìm 1 đoàn tàu. Họ tống chúng tôi lên 1 đoàn tàu bệnh viện tới Unecha (nằm giữa Bryansk và Gomel). Chúng tôi lên tàu, nhưng ngay sau đó mọi sự bất ngờ trở nên hỗn loạn. Mọi người bắt đầu chạy, súng nổ ầm ĩ. Thì ra có 1 máy bay Đức đang nã súng máy xuống nhà ga. Tôi cũng bị nhiễm sự hoảng loạn của đám đông.
Tới Unecha, chúng tôi đi tiếp trên 1 tàu hàng. Thời tiết rất tốt nhưng những người bạn đồng hành nói thế là xấu, và tôi hiểu ra. Những hố bom đen ngòm ở khắp nơi dọc theo đường tàu, có thể thấy cả những cái cây bị nổ tung. Hàng ngàn nông dân, cả đàn ông lẫn đàn bà, đang đào hào chống tăng.
Chúng tôi lo lắng nhìn trời và quyết định sẽ nhảy khỏi tàu nếu có vấn đề gì xấu. Đoàn tàu đang chạy rất chậm. Khi tới Novozybkov lại có ko kích, 1 quả bom rơi ngay trước sân ga, đoàn tàu ko thể đi tiếp được nữa. Chúng tôi nằm trên cỏ chờ đợi, thích thú vì hơi ấm và cỏ xanh vây quanh nhưng vẫn quan sát bầu trời. Ai biết điều gì sẽ xảy ra nếu máy bay Đức lại kéo tới bất ngờ?
Chúng tôi bật dậy vào nửa đêm, có 1 tàu bệnh viện đang trên đường tới Gomel. Chúng tôi túm tay vịn khi đoàn tàu chạy qua, nhảy lên bậc lên xuống rồi đập cửa xin đi nhờ, chí ít thì cũng xin cho ngồi nhờ trên sàn toa. Bất đồ 1 phụ nữ nhìn thấy và quát: "Nhảy khỏi tàu ngay! Cấm đi bằng tàu bệnh viện!" Người phụ nữ này là 1 bác sĩ có nhiệm vụ làm giảm sự đau khổ của con người cơ đấy. "Thứ lỗi cho chúng tôi, nhưng đoàn tàu đang chạy hết tốc lực, làm sao chúng tôi nhảy ra được?" Tất cả chúng tôi có 5 người đang bám vào tay vịn, tất cả đều là sĩ quan và tất cả đều năn nỉ cho lên, dù chỉ đứng trong 1 xó cũng được. Cô ta ko nói ko rằng bắt đầu đá chúng tôi thật lực với đôi ủng vĩ đại của mình, đấm chúng tôi, cố gắng làm chúng tôi tuột khỏi tay vịn. Mọi thứ có vẻ tồi tệ: nếu có ai đó tuột tay thì cả lũ đi đời. May thay chúng tôi chợt nhận ra mình ko phải đang bám vào tàu điện Moscow và chuyển từ phòng ngự sang phản công. Vài giây sau 1 góc toa đã thuộc về chúng tôi và con mẹ chó cái với quân hàm bác sĩ vừa gào lên sợ hãi vừa bỏ chạy biến. Đó là lần đầu tiên tôi nếm mùi chiến đấu.
Chúng tôi tới được Gomel. Đoàn tàu dừng cách ga rất xa vì vậy chúng tôi phải khổ sở đi bộ dọc đường ray trong đêm. Ai nấy lê bước dưới sức nặng của đống hành lý vượt qua đường tàu. Tôi bị đập đầu vào hành lý và vấp ngã; cái vali khốn nạn trở nên nặng kinh khủng.
Cuối cùng chúng tôi cũng đến được nhà ga. Nó đã bị phá huỷ hoàn toàn. Chúng tôi hết thốt lên "Ah" lại đến "Oh" khi nhìn đống đổ nát. 1 công nhân hoả xa đi qua cho biết nhà ga đã bị phá huỷ ngay trước cuộc xâm lược để xây 1 cái mới to đẹp hơn.
(*) Đại uý Gastello, anh hùng phi công nổi tiếng, đã từng tham gia cuộc Nội chiến Tây Ban Nha, chỉ huy 1 phi đội thuộc Trung đoàn 207, Sư 42 Ko quân. 1 khẩu súng phòng ko Đức đã bắn vỡ bình xăng chiếc máy bay của anh ngày 26/6/1941 ở khu vực Molodechno. Chiếc máy bay bắt đầu bốc cháy, Gastello đã lao thẳng máy bay vào hàng chiến xa Đức đang chạy trên đường. Vụ nổ đó đã phá huỷ hàng tá xe cộ, binh lính và xe tăng địch. Gastello được truy tặng danh hiệu Anh hùng Liên Xô.
Gomel! Thật buồn giờ chỉ còn là 1 thành phố xanh ngắt im lìm, trong những công viên xinh đẹp chỉ còn những cụ già đang ngồi trên ghế đá, những cô gái xinh đẹp đi bộ dọc các con phố, trẻ em chơi trên những đống cát được để sẵn để chống bom cháy ... Chỉ lát nữa thôi mây đen sẽ che lấp mặt trời, cơn bão đang tới có thể thổi tung cát bụi và cuốn đi tất cả họ. Bọn Đức chỉ còn cách đây chưa tới 50km.
Gomel chào đón chúng tôi bằng tiếng còi báo động ko kích. Dân địa phương nói rằng ở đây có thói quen kéo còi báo động ngay cả khi chẳng có máy bay Đức nào và ngược lại, kéo còi báo yên đúng vào lúc bom bắt đầu rơi.
Gomel đang bị oanh tạc. Tiếng rú rít ko dứt của bom, của lửa, của phụ nữ ... Mùi gắt bốc ra từ 1 hiệu thuốc bị trúng bom trong 1 lúc át cả mùi lửa cháy.
Hình ảnh Gomel rực cháy có thể thấy cả trong đôi mắt những con bò bị thương.
Khói bao phủ khắp nơi, những thợ sắp chữ phải làm việc dưới ánh sáng phát ra từ những toà nhà đang cháy.
Chúng tôi qua đêm với 1 nhà báo học việc. Các bài báo của anh ta sẽ chẳng bao giờ được đưa vào nơi lưu giữ các tác phẩm văn học. Tôi đã từng đọc bài của anh ta trên tờ báo của Phương diện quân. Đó toàn những thứ rác rưởi, những câu chuyện đại loại như "Ivan Pupkin đã 1 đòn chết 5 tên Đức".
Chúng tôi tới gặp người biên tập, chính uỷ cấp trung đoàn Nosov, ông ta bắt chúng tôi chờ 2 tiếng đồng hồ. Chúng tôi phải ngồi đợi trong 1 hành lang tối tăm và cuối cùng được gặp và nói chuyện với Đức Sa hoàng này trong vài phút. Tôi nhận ra 1 điều rằng người đồng chí này, nói 1 cách nhẹ nhàng, ko được thông minh sáng láng cho lắm và cuộc phỏng vấn ông ta ko đáng giá dù chỉ 2 phút chờ đợi.
Sở chỉ huy Phương diện quân Trung tâm là chặng dừng chân đầu tiên của Grossman, Troyanovsky và Knorring. Phương diện quân Trung tâm, chỉ huy là tướng Andrei Yeremenko, vừa được thành lập vội vàng sau sự sụp đổ của Phương diện quân Tây vào cuối tháng 6 (*). Vị chỉ huy kém may mắn của Phương diện quân Tây, tướng D. G. Pavlov, trở thành bung xung hứng hộ sai lầm của Stalin trong việc từ chối chuẩn bị chiến tranh. Theo đúng phong cách thông thường của Stalin, Pavlov - chỉ huy lực lượng xe tăng Soviet trong cuộc Nội chiến Tây Ban Nha, bị kết tội phản quốc và bị xử bắn.
Sở chỉ huy được đặt tại Lâu đài Paskevich. Đó là 1 khu công viên tuyệt đẹp với 1 cái hồ có cả thiên nga. Rất nhiều hào ngang dọc được đào khắp nơi. Chỉ huy bộ phận Ctrị Phương diện quân, Chính uỷ cấp lữ đoàn Kozlov, tiếp nhận chúng tôi. Ông nói Hội đồng Quốc phòng đang trong tình trạng báo động vì những tin tức đến vào ngày hôm qua. Quân Đức đã chiếm Roslavl và tập hợp 1 lực lượng tăng khổng lồ ở đó (**). Chỉ huy của chúng là Guderian, tác giả cuốn sách "Achtung! Panzer!" ("Chú ý! Thiết giáp!" - Maseo) (***).
Chúng tôi đọc lướt 1 đống báo của Phương diện quân. Tôi nhìn thấy 1 dòng tít: "Quân địch bị thiệt hại nặng vẫn tiếp tục hèn nhát tiến lên."
Chúng tôi ngủ trong phòng thư viện của câu lạc bộ "Komintern", chân vẫn đi ủng, mặt nạ phòng độc và túi quân trang dùng làm gối. Chúng tôi đã ăn tối ở căng tin sở chỉ huy, nó nằm ngay trong công viên, trong 1 cái rạp nhiều màu vui mắt. Họ cho chúng tôi ăn ngon, như thể chúng tôi đang ở "dom otdykha" (nhà nghỉ Soviet) trước chiến tranh vậy. Có kem chua, phomát thậm chỉ cả kem làm món tráng miệng.
(*) Tướng A. I. Yeremenko (1892 - 1970) từng tham gia vào chiến dịch chia phần Ba Lan năm 1939. Sau các trận đánh quanh Gomel tháng 8/1941, ông trở thành chỉ huy Phương diện quân Briansk, mùa thu năm đó ông bị thương nặng vào chân và suýt bị các đơn bị thiết giáp của Guderian bắt sống khi chúng đánh thọc sườn lực lượng của ông. Sau này ông trở thành Tổng tư lệnh Phương diện quân Stalingrad, tại đó Grossman đã phỏng vấn ông.
(**) Roslavl cách họ khoảng 200km về phía tây bắc, do đó khu vực quanh Gomel bị hở sườn 1 cách nguy hiểm. Điều này biến Gomel trở thành 1 mấu lồi.
(***) Tướng Heinz Guderian (1888 - 1953) là chỉ huy Cụm Thiết giáp số 2 (sau là Tập đoàn quân 2 Thiết giáp). Grossman đã 2 lần tí nữa bị lực lượng của ông ta bắt.
Grossman càng ngày càng lo sợ và vỡ mộng vì nhận rõ sự thiếu chuẩn bị của Hồng quân. Ông bắt đầu nghi ngờ, mặc dù các sĩ quan im lặng trước mọi vấn đề, rằng người phải chịu trách nhiệm chính trong thảm hoạ này là chính Stalin.
Khi chiến tranh bùng nổ, rất nhiều lãnh đạo cao cấp và tướng lĩnh đang đi nghỉ ở Sochi. Nhiều đơn vị thiết giáp đang lắp đặt dở động cơ mới cho xe tăng, nhiều đơn vị pháo binh ko có đạn, nhiều trung đoàn ko quân ko có nhiên liệu. Khi các cú điện thoại từ tiền tuyến dồn dập gọi về các sở chỉ huy cao cấp thông báo rằng chiến tranh đã bắt đầu, 1 số câu trả lời họ nhận được là như thế này: "Đừng có nhố nhăng!" Thông tin này đã gây ngạc nhiên theo cách đáng sợ và xấu nhất của từ này.
Thảm hoạ xảy ra trên khắp các mặt trận từ Biển Đen cho đến Biển Baltic đối với cá nhân Grossman có tầm quan trọng đặc biệt, như trong 1 bức thư ông viết gửi cha ngày 8/8 đã bộc lộ:
Cha thân yêu, con đã đến nơi hôm mùng 7 (tháng 8) ... Con rất tiếc là đã ko đem theo cái chăn nào, đắp áo mưa mà ngủ thật chẳng hay ho gì. Con luôn luôn lo lắng cho số phận của mẹ. Mẹ đang ở đâu? Điều gì đã xảy ra cho bà? Hãy cho con biết ngay khi có tin tức gì về mẹ.
Grossman cũng ra thăm chiến tuyến và có những ghi nhanh về những gì quan sát thấy.
Tôi xin kể về cách mà những người mù, sau khi Minsk bị thiêu cháy, rời khỏi khu nhà dành cho người tàn tật của họ, họ đi bộ thành hàng dài dọc theo đường ô tô, người nọ buộc vào người kia bằng khăn tắm.
1 phóng viên ảnh nhắc: "Hôm qua tôi đã thấy 1 số người chạy loạn trong tình trạng rất tốt."
1 người lính Hồng quân nằm trên bãi cỏ sau trận chiến, nói 1 mình: "Súc vật và cây cỏ tranh đấu để sinh tồn. Loài người đánh nhau vì quyền lợi."
Phép biện chứng của chiến tranh - kỹ năng ẩn nấp giúp bảo toàn mạng sống, kỹ năng chiến đấu đem lại sự sống.
Những câu chuyên ngắt quãng. Tất cả những ai đã thoát được đều ko thể ngừng kể về những vòng vây siết chặt lại như thế nào, và tất cả những câu chuyện đó đều đáng sợ.
1 phi công thoát về từ chiến tuyến địch chỉ còn mỗi bộ đồ lót trên người nhưng vẫn ko rời khẩu súng ngắn.
Những con chó được huấn luyện đặc biệt đeo chai cháy chống tăng (Molotov cocktail) bị tung vào những cỗ xe tăng địch và bùng cháy (*).
Bom đang nổ. 1 viên tiểu đoàn trưởng vẫn nằm trên cỏ, chẳng buồn đi tìm chỗ núp. Tay chính trị viên hét lên với anh ta: "Đồ lười. Sao anh ko chí ít là tìm chỗ núp trong mấy bụi rậm đằng kia?"
1 sở chỉ huy đặt trong 1 khu rừng. Máy bay lượn vòng vòng ngay trên nóc. Các sĩ quan bỏ hết mũ ra vì vành mũ phản chiếu ánh sáng và chụp báo lên đầu. Buổi sáng tiếng máy đánh chữ gõ rào rào khắp nơi. Khi chiếc máy bay xuất hiện, lính tráng chùm áo choàng xám lên những cô đánh máy vị họ toàn mặc những bộ đồ màu mè. Núp dưới những bụi cây, những nhân viên văn thư vẫn tiếp tục tranh cãi về các hồ sơ.
1 con gà của sĩ quan tham mưu nào đó vẫn đi loanh quanh trên mặt đất bị đào xới, mực dính trên cánh của nó.
Có rất nhiều nấm ăn được trong rừng - thấy nhiều đến phát chán (**).
(*) Những con chó này được huấn luyện theo nguyên lý Pavlov. Thức ăn cho chúng luôn được đặt dưới những chiếc xe tăng, vì vậy hễ thấy 1 chiếc xe thiết giáp nào là chúng lại chạy xuống dưới gầm xe. Chất nổ được buộc trên lưng chúng với 1 thanh kíp dài sẽ kích nổ khối thuốc ngay khi con chó chạm tới gầm chiếc xe mục tiêu.
(**) Ghi chép này có lẽ đã truyền cảm hứng cho Grossman viết đoạn văn sau trong cuốn "Nhân dân bất diệt" (The People Immortal): "Bogaryov thấy 1 bụi nấm trên cỏ. Chúng đứng đó, thân trắng mập, và anh nhớ đến cảm giác khi đi hái nấm cùng vợ 1 năm về trước. Họ đã sướng phát điên vì tìm được rất nhiều nấm, chưa bao giờ anh cảm thấy may mắn đến thế hồi trước chiến tranh."
Các chính trị viên đều đã được lệnh ra mặt trận. Có những người muốn đi và có những người ko chịu đến vị trí của mình 1 cách dễ dàng. 1 số đơn giản là tuân lệnh, 1 số khác tìm cách luồn lách. Tất cả giờ ngồi thành vòng tròn, mỗi người có thể nhìn thấy tất cả những người khác và những ai định luồn lách sẽ bị tất cả lật tẩy.
Trên con đường dài, xe ngựa, người đi bộ đi thành dãy. Bụi bốc thành đám vàng khè trên đường. Khuôn mặt của những người già và phụ nữ. Lái xe Ivan Kuptsov ngồi trên lưng con ngựa của anh ta chạy cách đó khoảng 100m. Khi việc rút lui bắt đầu và 1 khẩu pháo sắp bị mất vì 1 pháo đội Đức nã đạn vào họ, thay vì lao xuống vệ đường anh ta phi thẳng đến chỗ khẩu dã pháo và cứu nó khỏi bị sa lầy. Khi chính trị viên hỏi anh làm thế nào mà có can đảm đối mặt với cái chết để thực hiện kỳ công đó, anh trả lời: "Tôi có 1 tâm hồn bình thường, bình thường như 1 cây đàn balalaika. Nó ko sợ chết. Chỉ những tâm hồn cao cấp mới sợ chết."
1 người lái máy kéo khiêng tất cả những người bị thương lên xe anh ta rồi chở họ tránh sang 1 bên, kể cả những người bị thương nặng trịch vì mang theo vũ khí.
(Theo lời) Trung uý Yakovlev, 1 tiểu đoàn trưởng, bọn Đức tấn công đơn vị anh đều trong tình trạng hoàn toàn say xỉn. Những tên bị bắt đều nồng nặc mùi rượu và mắt chúng vằn máu. Tất cả các cuộc tấn công của chúng đều bị đánh bật. Binh lính muốn cáng Yakovlev đi vì anh đã bị thương nặng nhưng anh gào lên: "Tôi vẫn nói được và còn có thể ra lệnh. Tôi là 1 Đảng viên và tôi ko thể rời trận địa."
1 buổi sáng ngột ngạt, trời lặng gió. 1 ngôi làng hoàn toàn bình yên - đẹp và bình lặng với cuộc sống làng quê - lũ trẻ chơi đùa, người già và phụ nữ ngồi trên những chiếc ghế dài. Thật tệ là chúng tôi tới đúng lúc 3 chiếc Junker xuất hiện. Bom nổ. Tiếng gào thét. Lửa đỏ cùng khói trắng và khói đen. Chúng tôi lại đi qua ngôi làng này lần nữa tối đó. Những người dân mắt thất thần, kiệt sức. Phụ nữ mang theo đồ đạc. Những cột khói bốc cao giữa khung cảnh đổ nát. Và hoa - hoa ngô và mẫu đơn - vẫn bình thản khoe sắc.
Chúng tôi đi dưới làn đạn tới gần 1 nghĩa địa. Chúng tôi trú ẩn dưới những tán cây. 1 chiếc xe tải đậu ở đó, trong xe có xác 1 lính thông tin bọc trong 1 tấm vải dầu. Những người lính Hồng quân khác đang đào huyệt cho anh ta gần đó. Khi có 1 trận ko tập của máy bay Messer Đức, đám lính nhảy xuống huyệt núp. Viên trung uý quát: "Cứ đào đi, nếu ko chúng ta ko thể xong trước khi trời tối." Korol núp sau 1 ngôi mộ mới chôn trong khi những người khác chạy mỗi người 1 nơi. Chỉ có người lính thông tin đã chết là nằm thẳng dẵng và đạn súng máy rít trên người anh ta.
Grossman và Knorring tới thăm Trung đoàn Ko quân Chiến đấu 103 của Hồng quân đóng gần Gomel. Grossman mau chóng phát hiện ra những người lính Hồng quân trên mặt đất có cảm xúc hết sức lẫn lộn với lực lượng ko quân. Cánh ko quân đã nhanh chóng trở nên nổi tiếng vì tấn công bất kỳ thứ gì di động, cả bạn lẫn thù. 1 câu đùa phổ biến của lính tráng khi thấy máy bay quân ta là: "Quân ta! Quân ta! Mũ sắt của tôi đâu rồi?"
Tôi đi với Knorring tới sân bay Zyabrovsky gần Gomel. Chính uỷ Chikurin của Ko quân Hồng quân, 1 đồng chí to béo chậm chạp, đã cho chúng tôi mượn chiếc xe ZIS của ban tham mưu. Ông ta nguyền rủa bọn (phi công chiến đấu) Đức: "Chúng săn đuổi mọi xe cộ, kể cả xe tải và xe con dân sự. Thật đúng là 1 lũ hooligan, quân ô nhục!"
Cũng tại trung đoàn này còn có 2 đồng chí khác, cả 2 đều đã được tặng thưởng huân chương. Họ đã từng bắn hạ 1 máy bay quân ta và bị trừng phạt. Sau khi lĩnh án họ bắt đầu làm việc tốt hơn để lấy công chuộc tội.
Ghi chép trong cuộc phỏng vấn 1 phi công:
"Đồng chí trung tá, tôi đã bắn hạ 1 chiếc Junker-88 vì đất mẹ Soviet."
Về bọn Đức:
"Có những tên phi công cũng ko tệ, nhưng nhìn chung chúng là lũ cứt đái. Chúng ko chịu đấu tay đôi trừ phi bị dồn đến đường cùng."
"Ko có chỗ cho sự lo sợ - chỉ có căm hận. Và khi bạn nhìn thấy chúng bốc cháy, tâm hồn bạn trở nên thư thái."
"Ai sẽ bỏ chạy? Nó hay tôi? Tôi thì ko rồi. Tôi và chiếc máy bay đã nhập làm 1 đến mức ko còn cảm giác tách biệt gì nữa."
1 lính Hồng quân trẻ lắp đặt pháo sáng cho sở chỉ huy (sân bay) đã để nó bắn trúng lưng tham mưu trưởng.
Sở chỉ huy đặt trong 1 toà nhà vốn là Cung Thiếu nhi. 1 tay phi công to lớn quấn đầy người súng ngắn, bao đạn và những thứ tương tự đứng nổi bật cạnh cửa ra vào toa lét nữ.
Các toà nhà trong sân bay đã bị bom phá huỷ, sân bay cũng bị bom cày xới. Các máy bay Ilyushin và MIG được giấu dưới những tấm lưới nguỵ trang. Ô tô chạy quanh sân bay để chở nhiên liệu cho máy bay. Có cả 1 xe tải chuyên chở bánh trái và 1 xe nữa chuyên chở những cái phích đựng đồ ăn. Những cô gái bận áo liền quần trắng cho các phi công ăn bữa tối. Đám phi công ăn uống rất thất thường và có vẻ miễn cưỡng. Các cô gái phải dỗ cho họ ăn. 1 số máy bay được giấu trong rừng.
Thật thú vị khi Nemtsevich (chỉ huy trung đoàn ko quân) kể cho chúng tôi nghe về đêm đầu tiên của cuộc chiến, về sự kinh hoàng, bỏ chạy. Ông đã lái 1 chiếc xe tải chở vợ con các sĩ quan chạy suốt 1 ngày 1 đêm. Trong 1 ngôi nhà ông phát hiện nhiều sĩ quan đã bị đâm chết. Có lẽ họ đã bị bọn thám báo giết khi đang ngủ. Chỗ này quá gần tiền tuyến. Ông kể trong cái đêm bọn Đức bắt đầu cuộc xâm lược ông đã gọi điện cho 1 số doanh nghiệp ko quan trọng và phát hiện ra rằng hệ thống thông tin ko hoạt động ... Khi đó ông đã bực mình nhưng ko quá chú ý đến chuyện đó.
Nemtsevich nói với tôi là máy bay Đức ko hề xuất hiện trên khu vực sân bay của ông từ 10 ngày nay. Ông khẳng định kết luận của mình: bọn Đức ko còn nhiên liệu, bọn Đức ko còn máy bay, chúng đã bị bắn hạ sạch. Tôi chưa từng nghe bài diễn văn nào như thế - thật là 1 con người lạc quan. Đặc trưng những lời ông nói là cả cái tốt lẫn cái xấu cùng 1 lúc. Nhưng dù bất cứ giá nào ông cũng ko bao giờ nói về chiến lược.
Chúng tôi ăn trưa trong căng tin nhỏ ấm cúng. Có 1 cô phục vụ xinh đẹp và Nemtsevich phải rên lên vì thèm muốn mỗi khi nhìn cô. Ông nói chuyện với cô với giọng nịnh bợ, rụt rè, van xin, cô đáp lại với vẻ mỉa mai. Đó là thắng lợi ngắn ngủi của 1 người phụ nữ trước 1 người đàn ông, có lẽ chỉ trong vài ngày thậm chí vài giờ, trước khi trái tim cô gái tuyên bố "đầu hàng". Thật kỳ lạ khi nhìn viên trung đoàn trưởng ko quân đẹp trai và nam tính trở nên rụt rè ngoan ngoãn trước quyền lực của đàn bà. Hiển nhiên đây là 1 tay săn gái vĩ đại.
Chúng tôi qua đêm trong 1 căn nhà lớn, nhiều tầng. Nó hoang vắng, tối tăm, đáng sợ và buồn. Hàng trăm phụ nữ và trẻ em đã sống ở đây chỉ trước đây 1 thời gian ngắn, đó là gia đình của các phi công. Đêm đó chúng tôi bị đánh thức bởi tiếng rền trầm đục đáng sợ và chạy ra đường. Nhiều phi đội máy bay ném bom Đức đang bay về phía đông qua đầu chúng tôi, trái ngược với những lời Nemtsevich nói trong suốt ngày hôm nay rằng chúng ko có xăng và đã bị tiêu diệt.
Có tiếng động cơ khởi động, bụi bốc lên, và gió - thứ gió đặc biệt do cánh quạt máy bay tạo ra, thổi trên mặt đất. Máy bay lao lên trời chiếc này nối tiếp chiếc kia, lượn 1 vòng rồi bay mất. Ngay sau đó sân bay trở nên trống rỗng và câm lặng giống như 1 lớp học mà học sinh đã bỏ học hết. Giống như trong 1 ván bài: trung đoàn trưởng ném toàn bộ thời vận của mình lên trời, trên bàn chẳng để lại gì. Ông đứng đó, 1 mình, mắt nhìn trời, và bầu trời trước mắt ông hoàn toàn trống rỗng. Ông sẽ trở thành 1 kẻ cùng khổ hoặc có được mọi thứ. Đó là 1 cuộc chơi nơi tiền đặt cược là sự sống và cái chết, thắng lợi và thất bại. Tôi luôn có cảm giác mình như đang xem 1 cuốn phim chứ ko phải nhìn thực tế. Các sự kiện nghiêm trọng đến quá liên tục và nhanh chóng.
Cuối cùng, sau cuộc tấn công thành công vào đội hình bọn Đức, những chiếc máy bay chiến đấu quay về và hạ cánh. Trên chiếc máy bay dẫn đầu có 1 miếng thịt người bị kẹp vào bộ tản nhiệt. Đó là vì 1 chiếc máy bay yểm trợ cho phi đội ném bom địch bị trúng đạn nổ tung đúng lúc chiếc máy bay này bay qua. Poppe, người lái chiếc đi đầu, gỡ miếng thịt ra bằng 1 cái giũa. Mọi người gọi 1 ông bác sĩ tới, ông ta kiểm tra khối thịt nhầy nhụa máu đó 1 cách cẩn thận rồi thông báo: "Thịt Aryan!" Mọi người cười vang. Vâng, nó thật là 1 thời kỳ tàn nhẫn - thời kỳ của sắt thép - nó đã tới!
HAI
CUỘC RÚT LUI TỒI TỆ
Cảm tưởng chung trong những tháng đầu tiên của cuộc chiến tranh Xô - Đức là quân phát xít di chuyển liên tục, tiến rất nhanh và dùng lực lượng thiết giáp hợp vây từng mảng quân Nga rồi quét sạch họ. Về phía quân Soviet có những lúc họ tê liệt hoạt động, ko có phát ngôn gì trước sự hỗn loạn, những lời đồn thổi mà chỉ chờ đợi trong khi các mệnh lệnh ko tới được nơi cần tới hoặc bị huỷ bỏ giữa chừng. Grossman, Troyanovsky và Knorring cũng rút theo mặt trận. Grossman 1 lần nữa ghi lại mọi điều tai nghe mắt thấy vào sổ tay, 1 cuốn sổ nhỏ hình vuông giống vở làm bài tập toán của trẻ em.
Tới mặt trận. Tiếng gầm của đại bác mỗi lúc 1 to. Sự lo lắng và căng thẳng tăng dần. Pháo, đạn dược và những cỗ xe ngựa kéo đi trên con đường rộng rải cát trắng, bụi bốc lên lấp lánh vàng dưới ánh hoàng hôn, 2 bên đường là thông đỏ. Bộ binh đang hành quân. 1 sĩ quan trẻ người đầy bụi và mồ hôi cài 1 bông thược dược vàng lớn đi dưới ánh nắng đang tắt dần. Tất cả đều đi về hướng tây.
Trên mặt trận, cuộc chiến tranh chiến hào đang diễn ra, mỗi buổi sáng bọn Đức lại gọi to: "Zhuchkov, đầu hàng đi." Zhuchkov sưng sỉa đáp: "ĐM chúng mày." (Maseo: Sorry các bác, bản gốc nó đúng như thế - FU :D)
1 lính Hồng quân râu ria lởm chởm. Sĩ quan hỏi: "Sao cậu ko cạo?" Lính trả lời: "Tôi ko có dao cạo." Sĩ quan: "Tốt thôi, anh sẽ đi trinh sát với bộ râu của anh." Lính: "Tôi sẽ cạo râu ngay hôm nay, thưa đồng chí chỉ huy."
Ganakovich - 1 người tuyệt vời - rít tẩu thuốc, truyền sự thư thái cho mọi người. Thỉnh thoảng anh ta có vẻ buồn và thích ngồi 1 mình, anh ngồi suy nghĩ lâu, rất lâu. Anh sử dụng 1 thứ ngôn ngữ đầy màu sắc: "Vậy đấy, tôi nhớ cánh kỵ binh hồi 1914. Họ ăn cắp gà và hãm hiếp phụ nữ thậm chí ở cách xa chiến tuyến tới 200km."
Đánh nhau đêm. Đại bác nã từng loạt. Dã pháo gầm, đạn rít, đầu tiên giống tiếng còi xé tai, sau đó giống tiếng gió. Mìn nổ. Vô số vệt đạn sáng trắng. Điệu nhảy clacket của súng máy và súng trường là náo nhiệt nhất. Pháo sáng của bọn Đức màu xanh lá và trắng, thứ ánh sáng bất lương, ko giống như ánh sáng ban ngày. Súng nổ loạn xạ, chẳng ai nhìn hoặc nghe thấy gì nữa. Thật là 1 guồng máy náo loạn.
Buổi sáng, trên chiến địa những mảnh đạn dẹt như những cái đĩa hất tung đất xung quanh. Mặt nạ hơi độc, túi đạn nhét trong những lỗ nhỏ do lính đào ngay trong trận đánh bên thành ụ súng máy hoặc cối. Sẽ là ko tốt nếu đào những cái lỗ này quá gần người khác. Ai đó có thể thấy chúng có vẻ lộn xộn nhưng 2 lỗ - có nghĩa là có 2 người bạn, 5 lỗ - cả 1 tổ đang ở cùng 1 chỗ. Máu. 1 người bị giết sau đống cỏ khô, tay nắm chặt, đầu ngửa ra sau như bức tượng "Thần chiết trên chiến địa". Anh ta có cả 1 cái túi nhỏ đựng markhorka (thuốc lá đen) và 1 hộp diêm.
Dưới đáy hào của bọn Đức phủ đầy rơm. Rơm giữ lại hình dáng những kẻ đã nằm trên đó. Cạnh hào có những đồ hộp rỗng, vỏ cam, chai vang và brandy, báo, tạp chí. Ko có dấu vết gì của đồ ăn tại những ụ súng máy, chỉ có rất nhiều đầu mẩu thuốc lá và những gói thuốc lá nhiều màu. Ai cũng muốn chùi sạch tay sau khi chạm vào bất kỳ thứ gì của bọn Đức - báo, ảnh chụp, thư từ.
Sư trưởng, 1 đại tá cao và cáu bẳn, đầu đội mũ lính trơn. Ông ta nhẹ nhàng gây chú ý cho cánh phóng viên về sự sung sướng và kích động lồ lộ trên khuôn mặt những người bị thương trở về từ trận đánh, ông chỉ tay với nụ cười mỉa: "Đặc biệt là những kẻ bị thương vào tay trái."
Binh lính thường tự bắn vào tay trái trong 1 cố gắng khờ dại để khỏi phải chiến đấu. Thực tế là những vết thương kiểu như vậy trong bất kỳ trường hợp nào cũng mặc nhiên bị coi là tự gây thương tích cho mình nhằm trốn tránh chiến đấu. Những người lính đó sẽ phải đối mặt với án tử hình ngay tại chỗ do bộ phận đặc vụ của NKVD thực hiện (sau đổi thành lực lượng phản gián SMERSh). 1 số phẫu thuật viên của Hồng quân đã liều tìm cách cứu sống những người lính trẻ này bằng cách cắt luôn cả cánh tay trước khi bộ phận đặc vụ tới kiểm tra vết thương của mọi bệnh nhân mới.
1 tù binh Đức được canh giữ ở bìa rừng - 1 tên nhóc tóc đen trông rất khổ sở. Hắn quàng cổ bằng 1 cái khăn màu trắng và đỏ. Hắn đã bị phát hiện khi đang định trốn. Cảm giác chung của binh lính khi đứng trước hắn là ngạc nhiên, như thể hắn là 1 vật kỳ lạ, hết sức kỳ lạ so với những thứ xung quanh như cây dương, cây thông hay những cánh đồng đã thu hoạch hết.
1 cảm giác nguy hiểm chợt đến. Chỗ này mới trông có vẻ rất đáng sợ nhưng rồi bạn nhớ ra rằng nó cũng an toàn chẳng kém gì 1 căn hộ ở Moscow.
1 bãi tha ma. Chiến sự đã di chuyển xuống dưới thung lũng, ngôi làng đã cháy rụi. 12 chiếc máy bay ném bom Đức lao vọt qua từ bên trái. Nghĩa địa vẫn im ắng. Có tiếng gà mái quang quác từ ngôi làng đang bốc khói. Chúng vẫn nằm trong ổ, Petlyura nói miệng mỉm cười tinh quái: "Tôi sẽ tìm ra vài quả trứng cho anh trong mấy giây nữa." Ngay lúc đó 1 chiếc Messerschmitt tấn công với tiếng rít đặc trưng và Petlyura phi vào núp giữa những ngôi mộ, quên luôn những quả trứng.
Grossman sau đó hay tin Utkin, 1 nhà thơ nổi tiếng, đã bị thương ngay gần khu vực này (*).
Buổi sáng, chúng tôi tới bệnh viện dã chiến thăm Utkin, các ngón tay anh ta bị mảnh đạn giật phăng mất. Đó là 1 ngày u ám và có mưa. Có khoảng 900 thương binh trong 1 khu vực chật hẹp vốn là 1 rừng dương thưa. Khắp nơi là những mảnh quần áo rướm máu, mẩu thịt, tiếng rên rỉ, tiếng gào tắc nghẹn, hàng trăm đôi mắt đau đớn và buồn thảm. 1 "nữ bác sĩ" trẻ tóc đỏ đã khản cả giọng - cô đã phải làm việc suốt đêm. Mặt cô trắng nhợt - như thể cô sẽ lả đi bất kỳ lúc nào. Utkin đã được xe của ban tham mưu đưa đi, cô bác sĩ cười: "Khi tôi tiến hành cuộc phẫu thuật, anh ta đã đọc 1 bài thơ cho tôi nghe." Giọng cô chỉ vừa đủ để nghe thấy, cô phải hỗ trợ khả năng nói của mình bằng cử chỉ. Những người bị thương vẫn đang được đưa tới, họ đều ướt vì máu và nước mưa.
(*) Nhà thơ Iosif Utkin (1903 - 1944) tình nguyện tham gia Hồng quân tháng 6/1941 và bị thương. Sau khi lành vết thương ông quay lại mặt trận làm phóng viên quân đội. Nhiều bài thơ thời chiến của ông đã được phổ nhạc. Ông hy sinh trong 1 vụ rơi máy bay năm 1944 khi đang quay về Moscow từ mặt trận.
Cũng giống như mọi người Nga khác, Grossman cũng đề cập đến những đứa trẻ mồ côi do chiến tranh, cuộc đời của vô số đứa trẻ vô tội đó đã bị huỷ hoại.
Khi viên đại tá hành quân từ Volkovysk, ông tìm thấy 1 chú bé 3 tuổi trong rừng. Ông đã ẵm nó hàng trăm km qua đầm lầy và rừng rú. Tôi nhìn thấy 2 ông cháu trong sở chỉ huy, đứa bé tóc vàng ngái ngủ ôm chặt cổ đại tá. Tóc viên đại tá màu đỏ và quần áo ông như 1 mớ giẻ rách (*).
Vụ bắt tên tù binh Đức là 1 câu chuyện hài hước. Đơn giản là ai đó ra buộc chân 1 con ngỗng và phát hiện ra hắn. Trong thực tế lính Hồng quân thường buộc dây vào chân các loại gia cầm rồi để chúng tự chạy tìm thức ăn giữa những cái cây hoặc chui vào những bụi rậm. Tên Đức thò ra khi nghe tiếng ngỗng kêu và rơi vào bẫy.
Trong tuần thứ 3 của tháng 8, 1 phần Cụm thiết giáp số 2 của tướng Heinz Guderian tiến về phía nam đánh thọc sườn lực lượng Soviet tại mấu lồi Gomel. Cuộc tiến công của quân Đức buộc Hồng quân phải bỏ thành phố và ngay sau đó là phần đất cuối cùng của Belorussia cũng rơi vào tay quân thù. Grossman đã bất ngờ gặp người đứng đầu Đảng CS Belorussia bên lề 1 cuộc họp giữa Uỷ ban Trung ương của ông và những sĩ quan quân đội cao cấp (**). Grossman đã ghi lại sự việc này trong cuốn tiểu thuyết viết 1 năm sau đó.
Ai có thể tả được sự đau đớn trong buổi họp tổ chức tại khu rừng này, mảnh đất tự do cuối cùng của Belorussia. Tiếng gió thổi từ Belorussia tới xuyên qua hàng triệu phiến lá sồi nghe sao mà trang nghiêm và buồn bã. Các vị Dân Uỷ (Bộ trưởng) và các thành viên Uỷ ban Trung ương mặc quân phục mặt đầy vẻ buồn bã. Những lời họ nói đều ngắn gọn ... Mọi thứ thật đen tối. Pháo binh khai hoả. Những vệt lửa dài xuyên qua màn đêm hướng về phía tây.
(*) Grossman đã sử dụng đoạn viết này trong cuốn "Nhân dân bất diệt", khi con trai chính uỷ đã được cứu theo cách tương tự.
(**) Ortenberg viết sau này: "Ngày hôm sau (21/9) chúng tôi đã có thể đề nghị các vị lãnh đạo dành nhiều thời gian hơn cho các độc giả của báo: Vasily Grossman và Pavel Troyanovsky đã gửi 1 lô thứ mà họ lựa chọn được từ Gomel. Chúng bao gồm cả 1 bài phỏng vấn Tổng Bí thư Đảng CS Belorussia về sự can đảm của những chiến sĩ du kích.
Trong cuốn sổ ghi chép gốc, Grossman viết:
Trong phiên họp Uỷ ban Trung ương Đảng CS Belorussia - trên mảnh đất cuối cùng của Belorussia ... Những vấn đề gai góc nhất đều được hạ quyết tâm, ko 1 từ ko cần thiết nào được nói ra ... Ponomarenko (*) nói với chỉ huy Hồng quân: "Anh ko thể dùng thứ ngôn ngữ tởm lợm như vậy khi nói về 1 thành viên Uỷ ban Trung ương." Viên tướng hoảng hồn: "Tôi ko chửi ông ấy, tôi đang phê phán chung chung thôi."
Mệnh lệnh đưa ra là pháo kích Novo - Belitsa và Gomel suốt đêm đó. Bầu trời rực lửa. Cuộc nói chuyện kìm nén trong lều chỉ huy. Tiếng viên chỉ huy: "Nếu anh nhớ, đó là trong tác phẩm "Đường tới Arzrum"." Tiếng ai đó trả lời: "Những người Karaim ko phải Do Thái, họ đến từ Khazar." (**)
Lũ chó chạy khỏi Gomel đang bốc cháy lao qua cầu 2 bên thành xe.
Trong 1 trận bom, 1 ông già trèo lên khỏi hào để lấy lại mũ và cả đầu lẫn cổ của ông bị tiện bay.
(*) Panteleimon Kondratyevich Ponomarenko (1902 - 1984), Bí thư thứ nhất Đảng CS Belorussia từ năm 1938 đến năm 1947, bị quản thúc tại Moscow trong thời kỳ phát xít Đức xâm lược 1941 - 1944, tại đó ông vẫn giám sát các tổ chức du kích. Ponomarenko, 1 người ủng hộ nhiệt thành chủ nghĩa Stalinist, có lẽ là 1 fan nhạc jazz vì ông đã lập ra Nhà hát Jazz Quốc gia Belorussia tại Minsk năm 1940. Sau Đại chiến ông làm đại sứ Soviet tại nhiều nước và có quan hệ mật thiết với KGB.
(**) "2 phóng viên quân đội và 1 thợ ảnh ngồi trên 1 khúc cây đổ gần túp lều làm bằng cành cây nơi Uỷ ban Quân sự đang đóng ... Họ nghe thấy tiếng viên chỉ huy từ trong lều: "Nếu anh nhớ, đó là trong tác phẩm "Đường tới Arzrum" ..." - "Đường tới Arzrum" là 1 bài vè của Pushkin viết năm 1836, 1 năm trước khi ông chết trong 1 cuộc quyết đấu.
Tin tức về thất bại ngày càng tăng của quân đội loang ra dân chúng. Grossman, Troyanovsky và Knorring phóng về phía nam tránh các mũi tấn công của lực lượng thiết giáp do Guderian chỉ huy. Chuyến đi đưa họ tới vùng cực đông bắc Ukraina. Cả nhóm thoát về phía nam theo con đường cái từ Kiev đi Chernigov, sau đó rẽ về hướng đông đến Mena. Tại cả 2 nơi đó các sĩ quan tham mưu Hồng quân đều ko nhận rõ tính nghiêm trọng của tình hình như Grossman đã chứng kiến.
Tại Điện Kremlin, Stalin vẫn ko chịu đối mặt với sự đe doạ thực tế. Các đơn vị thiết giáp của Guderian từ Gomel đang tấn công về phía nam, tức là có thể cắt đứt thủ đô Kiev của Ukraina từ phía bắc, đến lúc người đứng đầu Soviet thừa nhận mối nguy hiểm thì đã quá muộn. Nó trở thành thất bại lớn nhất trong lịch sử quân đội Soviet. Tại Kiev, Hồng quân đã mất hơn nửa triệu quân, hoặc chết hoặc bị bắt. Grossman và các đồng sự chỉ vừa kịp thoát khỏi cái bẫy đó trước khi các Sư 3, 4 và 17 Thiết giáp Đức phóng về phía nam từ Gomel tới đông Ukraina. Sư 3 Thiết giáp Đức đã chiếm cây cầu chủ chốt bắc qua sông Desna gần Novgorod - Seversky ngày 25/8.
Troyanovsky mô tả lại chuyến đi: "Chúng tôi đã phóng và phóng qua những đống đổ nát hoang tàn. Những đống đổ nát mang tên Chernigov, Borzna, Baturin đều còn đang âm ỉ cháy ... Mỗi khi có 1 trận ko kích, P. I. Kolomeitsev đều giơ khẩu súng ngắn của anh ta bắn về hướng những chiếc máy bay phát xít. Ngay cả những tay hoàn toàn dân sự như Oleg Knorring và Vasily Grossman cũng dùng súng trường của họ để bắn máy bay." Tuy thế Grossman cũng lo lắng ko kém cho tấn thảm kịch của những người xung quanh.
Những người dân đang kêu khóc. Cả những người đang đi lẫn những người đang đứng bên hàng rào nhà họ, họ bắt đầu khóc ngay khi bắt đầu nói. Và ai nấy đều muốn khóc theo. Có quá nhiều đâu khổ!
1 ngôi nhà trống. Các gia đình ở thuê đã bỏ đi 1 ngày trước, người chủ cũng bỏ đi nốt. Cụ già hàng xóm có gặp họ trước khi đi: "Và con cún sẽ ở lại à?"
"Nó ko muốn đi."
Và ngôi nhà vẫn ở lại nơi nó luôn luôn đứng đó. Cà chua xanh chín dần trên nóc nhà, hoa khoe sắc trong vườn. Trong phòng có vài chiếc bình và cốc nhỏ, vài cây vả trồng trong chậu, 1 cây chanh và 1 cây cọ. Mọi nơi, mọi thứ vẫn còn cảm nhận được bàn tay chăm sóc của chủ nhân.
Bụi. Bụi trắng, bụi vàng, bụi đỏ. Bụi bốc lên theo bước chân những con cừu, lợn, ngựa, bò và theo bánh xe chở những người chạy loạn, chở lính Hồng quân, xe tải, xe con nhà binh, tăng, pháo và xe kéo pháo. Bụi bốc lên, quay cuồng, nhào lộn khắp Ukraina.
Heinkel và Junker bay suốt đêm. Chúng tung cánh giữa những vì sao như những đàn ruồi. Ko khí đã đen tối lại bị bao trùm thêm bởi tiếng rít của chúng. Bom rơi. Những làng mạc bốc cháy khắp nơi. Bầu trời đêm tháng 8 như được thắp sáng. Khi các vì sao biến mất hay có tiếng sấm, mọi người mới đầu thì sợ hãi nhưng sau đó cười: "Đó là do trời, do trời thực sự."
1 bà già nghĩ sẽ gặp được đứa con trai trong hàng người vẫn đang chậm chạp lê bước trong bụi đất mù mịt. Bã đã đứng đó đến tối rồi lại gần chúng tôi: "Các anh lính, cầm lấy mấy quả dưa chuột này, ăn đi, mời các anh." "Các anh lính, uống sữa đi." "Các anh lính, táo này." "Các anh lính, pho mát nhé." "Các anh lính, cầm lấy đi." Và bà khóc, những người phụ nữ khác cũng khóc, mắt vẫn nhìn những chàng trai đi qua trước mặt.
Cô gái Orinka người làng Dugovaya trông thật đau khổ, ngước đôi mắt ngây thơ đen láy nhìn mọi người. Chân cô đã đen sạm, quần áo rách nát. Chúng tôi mời cô mấy quả táo lấy từ vườn nông trang tập thể của cô. Vâng, khu vườn đó chính là của cô. Ông lão coi vườn im lặng nhìn chúng tôi hái táo cho cô.
1 khẩu pháo lớn đang được kéo đi khiến bụi màu vàng sẫm bốc mù mịt. 2 lính Hồng quân ngồi trên nòng pháo, mặt họ cũng đen nhẻm những bụi. Họ đang uống nước đựng trong mũ sắt.
Grossman chỉ rời Ukraina trước các đơn vị thiết giáp của Guderian 1 bước. Ông ko còn hồ nghi gì nữa về số phận mẹ mình, bà đã rơi vào tay giặc ở Berdichev, gần 500km sau lưng ông về phía tây nam. Từ Shchors (thành phố được đặt theo tên 1 anh hùng Bolshevik thời Nội chiến), Grossman, Troyanovsky và Knorring tới Glukhov rồi theo đường cái đi về hướng đông bắc tới Orel.
Nghĩ về những thành phố mà mình đã đến nay bị chiếm đóng cũng giống như nhớ về những người bạn đã chết. Thật vô cùng buồn. Chúng trở nên vừa xa vừa gần 1 cách đáng sợ, cuộc sống tại đó như trong "1 thế giới khác".
Nói chuyện với dân làng, mọi loại người, từ thô lỗ đến chân thành. Hôm nay 1 phụ nữ trẻ giọng the thé đã kêu lên: "Chúng tôi làm sao có thể nghe lệnh bọn Đức? Làm sao chúng tôi chấp nhận được những điều tồi tệ này?"
Dưa chuột. 4 người đàn ông đã lấy chúng khỏi 1 kho rau quả và mang ra sân trong 1 trận bom. Họ khóc vì sợ hãi, uống đến say rồi kể lại vào buổi tối theo kiểu hài hước rất Ukraina họ đã sợ hãi thế nào rồi lại cười đùa ra sao. Họ nhắm rượu với mật ong, salo (mỡ lợn), tỏi và cà chua. 1 người trong số họ bắt chước tiếng rít của bom rơi và tiếng nổ rất tài.
B. Korol dạy họ cách sử dụng lựu đạn. Họ nghĩ họ sẽ làm du kích khi bọn Đức chiếm đóng nhưng tôi có linh cảm từ cuộc nói chuyện này rằng họ đã sẵn sàng làm việc cho bọn Đức. 1 người trong số họ, người muốn trở thành 1 nhà nông học tại vùng này, nhìn Korol như thể anh ta là 1 thằng khờ.
Mặt mũi và thần sắc mọi người. Trong 3 ngày chúng tôi đi xuyên Belorussia, Ukraina và đến Orel. Quãng thời gian khó khăn này đã bộc lộ những phẩm chất tốt đẹp nhất của con người. Họ tốt và cao thượng. Đó là đặc điểm chung đối với người ở cả 3 đất nước nhưng cũng có những nét riêng rất khác biệt. Người Nga mạnh mẽ và kiên trì nhất. Gương mặt người Ukraina buồn và quý phái, họ ranh mãnh và hơi thiếu trung thực. Người Belorussia câm lặng và buồn rầu trước những đau khổ.
Orel. Lái xe trong đêm. Phanh xe chúng tôi ko còn hoạt động. Chúng tôi dừng lại 1 cách khó khăn trước 1 nhóm người chạy loạn. 1 phụ nữ hét lên. Họ là những người Do Thái tị nạn.
Tới Orel, thành phố ko có ánh đèn. Trước chiến tranh người ta có thể nhìn thấy ánh đèn thành phố thậm chí từ vùng nông thôn xa xôi. Bây giờ, nó tối đen. Khách sạn. Giường! Chúng tôi được tháo giày và cởi quần áo mà ngủ lần đầu tiên trong suốt chuyến đi. Có thể gọi điện nói chuyện với Moscow. Được nói chuyện thoải mái với những người bạn, gia đình và đồng nghiệp đã giúp chúng tôi thoát khỏi những dư vị buồn.
BA
TẠI PHƯƠNG DIỆN QUÂN BRYANSK
Ortenberg ko cho Grossman và Troyanovsky chút thời gian nghỉ ngơi nào ở Orel sau cú thoát chết của họ. Họ được lệnh quay lại làm việc tại Phương diện quân Bryansk, nơi đang phải hứng chịu toàn bộ sức mạnh của Chiến dịch Typhoon khi tướng Đức Von Bock chỉ huy Cụm Tập đoàn quân Trung tâm mở cuộc tấn công về hướng Moscow.
Phóng xe tới mặt trận. 2 lính Hồng quân đang ở trong 1 khu vườn tươi tốt vô chủ, đó là 1 buổi sáng tĩnh lặng, chỉ có họ ở đó, những người lính truyền tin. "Các đồng chí sĩ quan, tôi sẽ rung cây táo này lấy vài quả cho các anh ngay bây giờ." Những quả táo rụng lịch bịch trên mặt đất của khu vườn hoang. Khu nhà của chủ quét vôi trắng trông thật buồn tẻ, 2 chủ nhân mới tới cũng lại bỏ đi. Và rồi ngay sau đó lại có 1 chủ nhân khác, 1 người lính có khuôn mặt rạng rỡ nhưng bẩn thỉu, anh ta nhanh chóng nhặt cả 1 đống táo trong tay.
1 bà già nói: "Ai biết Chúa có tồn tại hay ko. Tôi cầu xin Người, đó ko phải việc khó, chỉ cần cúi đầu trước Người 2 - 3 lần và ai biết đâu đấy, có thể Người sẽ chấp nhận lời cầu khấn."
Trong 1 izba (nhà nhỏ làm bằng gỗ xúc - Maseo) bỏ ko, mọi thứ đã được mang đi, ngoại trừ những tượng thánh. Điều này rất ko giống với phong cách những người nông dân của Nekrasov (*), những người luôn giữ gìn những tượng thánh mỗi khi có đám cháy, dù phải bỏ lại tất cả mọi tài sản khác trong ngọn lửa.
1 đứa trẻ khóc suốt đêm. Nó bị 1 vết áp xe ở chân. Mẹ nó suỵt cho nó im, trấn an nó: "Con yêu, con yêu." Và đến đêm thì trận đánh nổ ra ngay ngoài cửa sổ nhà 2 mẹ con.
Thời tiết xấu - u ám, mưa, sương mù - mọi người đều ướt và lạnh nhưng ai cũng có vẻ sung sướng. Thế này thì ko sợ máy bay Đức. Ai cũng nói với vẻ hài lòng: "Thật là 1 ngày đẹp trời."
Việc tiến quân của bọn Đức khiến ngày càng nhiều nông dân nhận thấy cần biến những súc vật nuôi của mình thành thịt muối và xúc xích để dễ bề cất dấu.
Những con lợn bị làm thịt. Tiếng chúng kêu nghe sởn tóc gáy.
Cuộc hỏi cung 1 kẻ phản bội diễn ra trên bãi cỏ trong 1 ngày mùa thu quang đãng, yên tĩnh dưới ánh mặt trời ấm áp. Hắn có bộ râu rậm và mặc 1 cái áo khoác rách bằng vải thô màu nâu, đầu đội 1 cái mũ nông dân lớn. Chân hắn bẩn và để trần tới bắp chân, trông hắn như 1 nông dân trẻ mắt xanh nhạt. 1 tay hắn sưng phồng, tay kia nhỏ nhắn - trông như tay phụ nữ, với những móng tay sạch sẽ. Hắn nói tiếng Ukraina, kéo dài từng từ với giọng êm ái. Hắn đến từ Chernigov, hắn đã bị lạc vài ngày trước và bị bắt trên chiến tuyến đêm qua khi định quay về phía bên kia trong bộ trang phục nông dân trông như phường tuồng. Thật tình cờ hắn bị bắt bởi chính những đồng đội cũ, những người lính cùng đại đội với hắn, giờ họ đang đứng trước mặt hắn. Bọn Đức đã mua chuộc hắn chỉ bằng 100 Mark (tiền Đức - Maseo). Hắn được bọn chúng cử quay lại phía quân ta để xác định vị trí các sở chỉ huy và các sân bay. "Nhưng chỉ được 100 Mark thôi," hắn dài giọng. Hắn nghĩ tính khiêm tốn của con số đó sẽ giúp hắn có nhiều sự tha thứ hơn. "Việc này cũng làm tôi khó nghĩ lắm, tôi biết, tôi biết." Hắn ko còn là người nữa, tất cả mọi chuyển động, nụ cười, ánh nhìn, lời nói, hơi thở của hắn - tất cả tạo cảm giác đang ở cạnh 1 xác chết. Hắn cũng có vấn đề với trí nhớ.
"Tên vợ mày là gì?"
"Tên vợ tôi á, tôi nhớ chứ, Gorpyna"
"Còn con mày?"
"Tôi cũng nhớ tên nó, Pyotr." Hắn ngẫm nghĩ 1 lúc rồi thêm: "Dmitrievich. 5 tuổi." "Tôi muốn cạo mặt 1 cái," hắn tiếp. "Mọi người đang nhìn tôi, tôi cảm thấy ngượng." Hắn đập đập tay vào bộ râu. Hắn bứt 1 cọng cỏ, bốc đất, bẻ vụn 1 mẩu gỗ, liên tục ngọ nguậy 1 cách nhanh nhẹn và điên dại, như thể việc luôn làm 1 cái gì đó sẽ cứu được hắn. Khi hắn nhìn những người lính với súng trường trong tay, đôi mắt hắn vằn lên như 1 con thú trong cơn sợ hãi.
Sau đó viên đại tá tát vào mặt hắn. Gầm lên mà mắt đẫm lệ: "Thực sự thì mày đã làm cái gì thế này?" Anh lính cảnh vệ cũng quát vào mặt hắn: "Mày đã hại cả con mày rồi! Làm sao nó sống được với nỗi nhục này!"
"Chẳng lẽ các ông ko biết chính tôi cũng ko hiểu tôi đã làm gì sao, các đồng chí?" Tên phản bội nói, mặt hướng về cả viên đại tá và người cảnh vệ cứ như họ có thể đồng cảm với vấn đề của hắn. Hắn đã bị bắn ngay trước mặt đại đội nơi hắn từng phục vụ chỉ 1 thời gian ngắn trước đó.
Thiếu tá Garan đã nhận được 1 bức thư từ vợ hắn. Khi đó ông đang bận việc và đã lạnh lùng quẳng nó sang 1 bên mà ko buồn mở. Sau đó ông có đọc bức thư và mỉm cười nói: "Đến tôi còn chẳng biết vợ con mình sẽ sống hay chết nữa; tôi đã chia tay gia đình ở Dvinsk. Và giờ thằng con viết thư cho tôi thế này: "Con đã trèo lên mái nhà khi bọn Đức ko kích và bắn máy bay bằng 1 khẩu súng ổ quay." Nó có 1 khẩu súng ổ quay bằng gỗ."
(*) Nikolai Alekseevich Nekrasov (1821 - 1878), nhà thơ. Người mẹ Ba Lan của ông đã dạy ông về sự khốn khổ của tầng lớp nông dân Nga, nó trở thành chủ đề chính trong các tác phẩm của ông đặc biệt là các bài thơ "Trên đường", "Quê hương" và "Rét Mũi Đỏ".
Grossman viết cho cha rằng ông vẫn rất lo lắng cho mẹ và con gái Katya. Ông ko biết Katya thực ra đã được gửi tới trại hè Thiếu niên Tiền phong ở miền đông.
Sức khoẻ của con tốt, cảm giác dễ chịu và tinh thần lên cao. Chỉ có điều là con suốt ngày đêm lo cho mẹ và Katyusha, con cũng rất muốn được nhìn thấy mọi người thân. Có thể con sẽ được ở Moscow vài ngày trong vòng 3 tuần tới. Con sẽ được tắm rửa và ngủ tử tế mà ko phải đi ủng trên giường - điều đó với con bây giờ là siêu tiện nghi.
Sau đó 1 thời gian ngắn Grossman cũng viết thư cho vợ. Bức thư này đề ngày 16/9, giống như thư của mọi người lính tiền tuyến khác, chỉ có rất ít thông tin ngoại trừ việc cho thấy người gửi nó vẫn còn sống vào ngày bức thư được gửi đi.
Lyusenka thân yêu,
Anh đang được thấy nhiều điều thú vị. Anh suốt ngày di chuyển từ địa điểm này qua địa điểm khác, cuộc sống ở mặt trận là như vậy. Em có đang viết thư cho anh ko? 1 giọt dầu từ rầm nóc hầm đã rơi vào tấm thiệp khi anh đang viết.
Hãy đọc tờ Krasnaya Zvezda, anh có độ 2 - 3 bài được đăng mỗi tháng. Chúng cũng là những lời chào của anh gửi cho em.
Vasya của em.
2 ngày trước đó, tờ Krasnaya Zvezda vừa mới đăng bài viết mới nhất của ông. Bài viết mang tựa đề "Trong hầm địch - nơi ở của bọn phát xít".
Những chiến hào, những hoả điểm, những boongke của binh lính và sĩ quan Đức. Quân địch đã từng ở đây. Có rượu vang và brandy Pháp; ô liu Hy Lạp; nước ép cam từ "nước đồng minh" của chúng - tên nô lệ ngoan ngoãn mang tên Italy; 1 bình mứt đóng mác Ba Lan; 1 hộp lớn hình oval cá hộp do Na Uy tiến cống; 1 xô mật ong từ Tiệp Khắc. Và những mảnh đạn của 1 viên đạn pháo Nga nằm giữa bữa tiệc của bọn phát xít.
Hầm của binh lính là 1 hình ảnh khác: ở đây người ta chẳng thể tìm thấy những hộp sô cô la rỗng hay cá sardine ăn dở. Chỉ có những hộp đậu ép và những khoanh bánh mì nặng như được đúc bằng thép. Cầm những khoanh bánh mì đó mới thấy chúng nặng, đặc và có mầu sắc hệt nhựa đường. Những chiến sĩ Hồng quân cười nói: "Thế đấy, người anh em, nó đúng là bánh mì đấy!"
BỐN
VỚI TẬP ĐOÀN QUÂN 50
Trong thời gian làm việc tại Phương diện quân Bryansk tháng 9/1941, Grossman đã tới thăm sở chỉ huy Tập đoàn quân 50. Tập đoàn quân này có 7 sư đoàn bộ binh, chỉ huy là thiếu tướng Mikhail Petrov (*). Sở chỉ huy đặt trong 1 izba (nhà nhỏ làm bằng gỗ xúc).
Trong izba là thành viên Hội đồng Quân sự (tức chính uỷ) Shlyapin và Tổng Chỉ huy Petrov. Petrov có cái mũi to và ngắn, khoác áo choàng cấp tướng bẩn thỉu và đeo ngôi Sao Vàng (Anh hùng Liên Xô) mà ông được nhận vì thành tích trong cuộc Nội chiến Tây Ban Nha. Ông đang dài dòng giải thích về cách làm bánh xốp, cách nhào bột và sự khác nhau giữa bánh mì làm từ lúa mì với bánh mì làm từ lúa mạch. Petrov là người rất dữ tợn và cũng rất dũng cảm. Ông kể cho chúng tôi nghe ông đã thoát khỏi vòng vây bằng cách đi bộ mà vẫn mặc nguyên quân phục và đeo Sao Vàng vì ko muốn cải trang làm thường dân. Ông đã đi 1 mình, ăn mặc 1 cách phô trương và mang 1 cây gậy để đuổi lũ chó. Ông nói với tôi: "Tôi luôn mơ được tới Châu Phi, đi 1 mình qua những khu rừng nhiệt đới với 1 cây rìu và 1 khẩu súng trường." Ông yêu mèo, nhất là mèo con, và hay chơi với chúng.
Chỉ huy Tập đoàn quân 50 Petrov nói với 1 phụ nữ trong 1 ngôi làng vừa được tái chiếm từ tay bọn Đức: "Vậy cô nghĩ thế nào về bọn Đức?"
"Chúng ko phải người xấu", cô ta trả lời. Viên tướng chửi cô ta liền.
Có 1 viên sĩ quan đang ăn chút gì đó. Người phụ nữ nói với anh ta: "Ông ấy thật thối tha."
Người nấu bếp của viên tướng trước chiến tranh từng làm việc trong 1 nhà hàng cũng ở trong izba. Anh ta chê đồ ăn trong làng. Những phụ nữ trong làng rất tức, họ gọi anh ta là Timka thay vì Timofei. Sự xuất hiện của anh ta luôn làm họ kinh hoàng.
Timka: "Khi phải ra tiền tuyến, mỗi khi lái xe tới đó tôi thường uống 1 cốc cồn công nghiệp, thế là tôi chẳng còn quan tâm đến điều gì nữa. Đạn rít xung quanh còn tôi vẫn vừa hát vừa múc thức ăn cho binh sĩ. Oh, họ yêu tôi, lính tráng mới yêu tôi làm sao." Timka diễn lại động tác chia thức ăn đó như múa balê, miệng hát. Trông như thể anh ta hôm nay cũng vừa làm 1 cốc vậy.
Sĩ quan tuỳ tùng: Sĩ quan tuỳ tùng của Shlyapin cao, đẹp trai, anh ta là trung uý Klenovkin. Sĩ quan tuỳ tùng của Petrov thì lùn như trẻ vị thành niên nhưng có bắp vai khổng lồ và tấm lưng cánh phản. Tay "trẻ vị thành niên" này có thể hất đổ cả cái izba này chỉ bằng 1 cú huých vai. Anh ta đeo đầy người những súng ngắn, tiểu liên và lựu đạn. Trong túi anh ta có kẹo ăn cắp từ bàn thiếu tướng đồng thời có hàng trăm viên đạn để bảo vệ mạng sống cho ông ta.
Petrov ngắm tay tuỳ tùng của mình ăn rất mau lẹ, bốc tay thay vì dùng nĩa. "Nếu anh ko chịu học chút văn hoá," viên tướng quát, "tôi sẽ tống anh ra tuyến đầu. Anh phải ăn bằng nĩa, ko phải bằng tay!"
2 sĩ quan tuỳ tùng của thiếu tướng và chính uỷ ngồi phân loại đồ lót của 2 vị chỉ huy, định để mượn những thứ ngoại cỡ - sĩ quan tuỳ tùng của chính uỷ lựa đồ của thiếu tướng và ngược lại. Khi vượt qua 1 con suối nhỏ, tướng quân sẽ nhảy qua, chính uỷ thì cứ thế bước qua rồi lau ủng sau. Sau đó sĩ quan tuỳ tùng của thiếu tướng cũng nhảy qua còn sĩ quan tuỳ tùng của chính uỷ bước qua rồi lau ủng.
(*) Thiếu tướng Mikhail P. Petrov (1898 - 1941)
Buổi tối trong ánh nến. Petrov nói năng rất cộc cằn. Ông phản ứng lại đề nghị của 1 viên sư trưởng xin hoãn cuộc tấn công vì thiếu quân: "Nói với ông ta tôi sẽ hoãn nếu ông ta chỉ còn mỗi 1 mình." Sau đó chúng tôi chơi domino rất lâu - Petrov, Shlyapin, 1 cô y tá bầu bĩnh xinh đẹp tên là Valya, và tôi. Viên chỉ huy tập đoàn quân đập quân domino xuống mặt bàn bôm bốp và dùng bàn tay che quân bài như 1 tay cờ bạc chuyên nghiệp. Hết lần này đến lần khác 1 viên thiếu tá từ ban chỉ huy hành quân chạy sang để đưa báo cáo.
Sáng ra, khi ăn sáng Petrov tỏ ra ko đói. Ông làm 1 ly vodka: "Bộ trưởng cho phép điều đó," ông cười nói. (Tiêu chuẩn cho phép uống 100g vodka mỗi ngày).
Trước khi tới sư đoàn tiền tiêu, tướng quân chơi với lũ mèo. Đầu tiên ông tới sở chỉ huy sư đoàn, sau đó tới 1 trong các trung đoàn. Chúng tôi rời khỏi xe và đi bộ trên đất ướt, chân kẹt trong bùn. Petrov văng vài từ tiếng Tây Ban Nha, tiếng ông vang vọng khắp trời đất, khắp vùng đất ẩm ưới này. (*)
Trung đoàn đang chiến đấu. Họ đã thất bại trong việc chiếm 1 ngôi làng. Tiếng súng máy và tiểu liên nổ ầm ĩ, đạn rít. Chỉ huy tập đoàn quân gay gắt khiển trách trung đoàn trưởng: "Nếu anh ko chiếm được cái làng này trong 1 giờ nữa, anh sẽ phải giao chức trung đoàn trưởng cho người khác và tham gia tấn công như binh nhì." Trung đoàn trưởng trả lời: "Rõ, thưa đồng chí chỉ huy Tập đoàn quân." Tay trung đoàn trưởng run bần bật. Chẳng ai dám đứng thẳng mà đi ở đây cả, ai cũng phải chạy lom khom hoặc bò bằng cả 4 chân từ hố này sang hố khác. Họ sợ ăn đạn, trong khi ở đây chả có phát đạn nào bắn tới. Tất cả họ núp trong bùn lầy và những vũng nước. Shlyapin thẳng người lên đi loanh quanh như đi dạo trên đường làng và quát đám lính: "Cứ cúi xuống đi, lũ nhát gan, cứ cúi xuống đi!"
Khi chúng tôi tới trung đoàn thứ 2, sở chỉ huy của nó chẳng có ai. Chỉ có 3 con mèo sạch sẽ trong căn nhà trống cùng nhiều vũ khí và tượng thánh.
Sau bữa tối, tay kiểm sát viên quân sự tới từ sở chỉ huy hậu cứ Tập đoàn quân 50. Tất cả chúng tôi uống trà với mứt mâm xôi trong khi kiểm sát viên báo cáo những vấn đề còn tồn tại: những người tỏ ra hèn nhát, những kẻ đào ngũ - trong số đó có Pochepa, 1 thiếu tá già - cũng như trường hợp các nông dân bị tố cáo tuyên truyền cho bọn Đức . Petrov gạt cốc sang 1 bên. Ở góc văn bản ông phê chuẩn án tử hình bằng bút đỏ với chữ ký nhỏ tý như của trẻ con.
Kiểm sát viên báo cáo 1 vụ việc khác: 1 phụ nữ đã ép những người nông dân chào đón bọn Đức bằng bánh mì và muối.
"Thế bà ta là ai?" Petrov hỏi.
"1 bà gái già," tay kiểm sát viên cười.
Petrov cũng cười. "Vậy à, do bà ta là 1 gái già nên tôi sẽ chuyển chỗ ở cho bà ta trong vòng 10 năm." Và ông viết 1 bản án nữa. Sau đó ông uống thêm chút trà. Tay kiểm sát viên nói lời tạm biệt. "Nhắc họ gửi cái ấm samovar của tôi tới đây, tôi đang để nó ở sở chỉ huy," Petrov nói với kiểm sát viên. "Tôi luôn cần có nó ở gần bên mình."
Grossman rõ ràng kính trọng Chính uỷ cấp lữ đoàn Nikolai Alekseevich Shlyapin hơn Petrov nhiều.
Shlyapin là người thông minh, mạnh mẽ, bình tĩnh, to lớn và chậm rãi. Mọi người đều cảm nhận được sức mạnh tiềm ẩn bên trong ông.
Cuộc viếng thăm sở chỉ huy Tập đoàn quân 50 sau này đã cung cấp nhiều điều quan trọng cho công việc của Grossman. Trong những cuộc nói chuyện dài, Shlyapin kể cho Grossman câu chuyện về những kinh nghiệm mà ông có được ở Sư 94 Bộ binh vào mùa hè thảm hoạ khi bọn Đức xâm lược. 1 tháng sau khi chiến tranh bùng nổ, sư đoàn của ông trở thành 1 phần của Phương diện quân Tây bị đánh tan tác, chỉ huy là tướng Pavlov. Phần còn lại của sư đoàn cố thoát khỏi vòng vây ở Belorussia rút về phía đông tới Vitebsk, tại đó họ bị Sư 20 Thiết giáp Đức tấn công vào cuối tháng 7. Họ phải rút vào rừng, sau đó chiến đấu để mở đường máu thoát ra. Miêu tả của Shlyapin chắc chắn mang màu sắc khác hẳn công thức chung Soviet lúc đó là phóng đại sức mạnh cũng như thương vong của địch trong khi những hành động thực tế và anh hùng của các viên chỉ huy cấp trên của Shlyapin thường lại bị buộc tội. Grossman đã sử dụng những ghi chép từ các cuộc nói chuyện này để viết cuốn "Nhân dân bất diệt" vào năm sau. Cái chết của Shlyapin 1 tháng sau cuộc gặp gỡ giữa 2 người đã khiến Grossman thêm quyết tâm lưu danh người chính uỷ này.
Shlyapin kể cho tôi mọi thứ khi cả 2 nằm trên 1 đống cỏ trong chuồng gia súc. Xung quanh tiếng đạn trái phá gầm thét. Phía cuối chuồng gia súc cô nàng Valya (**) đang bật máy hát và chúng tôi cùng nghe bản "Chiếc khăn xanh nho nhỏ" (***). Những cây dương mảnh dẻ run rẩy trong tiếng nổ, đường đạn vạch ngang bầu trời.
Cuối tháng đó, Grossman cuối cùng cũng nhận được tin cha rằng con cái ông, Katya, vẫn an toàn.
Cha kính yêu, con đã nhận được 1 loạt bưu thiếp cùng lúc, 2 trong số đó là từ cha. Đây là lần đầu tiên con nhận được tin tức sau 2 tháng. Con rất mừng là Katya vẫn ổn, nhưng giờ nỗi lo lắng của con về mẹ lại tăng gấp đôi ... Con đang rất nóng lòng gặp cha nhưng điều đó nằm ngoài khả năng của con cho đến khi các sếp triệu hồi con về.
(*) Tướng Petrov từng là 1 trong các "cố vấn" đi theo đội quân "Operatsii X" của phe Cộng hoà trong cuộc Nội chiến Tây Ban Nha.
(**) Valya có lẽ là "vợ ngoài mặt trận" của tướng Petrov. Grossman sau này có phun ra sự thật phổ biến trong giới sĩ quan cao cấp là họ thường chọn những cô gái xinh đẹp trong sở chỉ huy và bệnh viện dã chiến để làm vụ này.
(***) "Chiếc khăn xanh nho nhỏ" là 1 bài hát nổi tiếng, nội dung bài hát là lời người yêu 1 chiến sĩ hứa ko bao giờ quên anh khi anh ra mặt trận. Cô gái quàng 1 chiếc khăn xanh xinh xắn và dùng nó để vẫy chào người yêu. Nhạc G. Peterburgsky, lời Yakov Galitsky. Thật thú vị nếu xét rằng Stalin vẫn luôn công kích những người Do Thái như những "kẻ ko Tổ quốc" trong khi phần lớn những bài ca yêu nước phổ biến ở Liên Xô trong thời gian WW2 lại có tác giả là người Do Thái.
NĂM
TRỞ LẠI UKRAINA
Ngày 20/9, Grossman và Troyanovsky quay trở về hướng nam 1 lần nữa tới Glukhov ở cực đông bắc Ukraina, đó là nơi họ đã từng đi qua khi chạy khỏi Gomel.
Việc Stalin ko chịu đối mặt với nguy cơ Kiev bị vây đã tạo điều kiện cho Cụm Thiết giáp số 2 của Guderian hội quân được với Cụm Thiết giáp số 1 của Kleist gần Lokhvitsa. Phương diện quân Tây Nam của tướng Kirponos gồm các Tập đoàn quân 5, 21, 26 và 37 đã bị cắt rời. Bạn chí thân của Stalin, Nguyên soái Budenny đã thoát được, Nikita Khrushchev và tướng Timoshenko cũng vậy. Khoảng 15.000 quân cũng thoát được khỏi vòng vây quân Đức nhưng nửa triệu quân còn lại buộc phải chịu số phận khủng khiếp là phơi mình trước cái đói, bệnh tật trong các trại tù binh của bọn Đức.
Mặc dù tình hình quân sự như vậy, phần lớn người Ukraina ko muốn sơ tán về phía đông tới lưu vực sông Volga. Bản thân Grossman mặc dù sinh ra và lớn lên ở Berdichev, 1 thị trân Ukraina, nhưng coi những nông dân Ukraina gần như người nước ngoài vì ông ko hề có bất kỳ quan hệ gì với cuộc sống nông thôn.
Những người Ukraina đã trải qua cuộc nội chiến ác liệt cầy sới qua đất đai của họ, sau tất cả những cái đó lại đến nạn đói khủng khiếp gây ra bởi chính sách của Stalin triệt nông dân giàu có và địa chủ kulak, tập thể hoá nông nghiệp cưỡng bức. Vì vậy, nhiều người Ukraina đã chuẩn bị đón chào quân Đức như những người giải phóng. Grossman sau đó phát hiện ra rằng cảnh sát tình nguyện người Ukraina thậm chí còn tham gia tích cực vào việc vây bắt người Do Thái ở Berdichev, bao gồm cả mẹ ông và các bạn bè, và dự phần vào việc tàn sát họ.
Trên mặt đất gió ù ù thổi, lạnh, có vẻ tuyết sắp rơi. Những phụ nữ khoác áo tang, vẻ mặt lạnh lùng. Họ đang làm loạn. Họ ko muốn rời khỏi đây để tới nước Cộng hoà Đức tại Volga (*) cùng con cái mình. Vài người dắt theo dăm sáu đứa nhỏ.
Những người phụ nữ giơ cao liềm. Những cái liềm phản chiếu ánh sáng đục mờ xám xịt của mùa thu. Mắt họ đẫm lệ. 1 lúc sau họ lại cười và chửi rủa, rồi lại giận giữ và tỏ vẻ đau khổ. Họ kêu lên: "Thưa trung uý, 1 ông cụ có 2 con trai đã treo cổ hôm qua. Ông ấy ko muốn tới Cộng hoà Đức tại Volga. Bọn Đức có thể cũng sẽ tống chúng tôi tới đó hay tới bất cứ đâu. Chúng tôi sẽ ko đi, chúng tôi sẽ chết ở đây. Bất kỳ quân rắn độc tệ hại nào tới ép chúng tôi rời khỏi nhà sẽ phải nói chuyện với những cái liềm này."
Lúc sau lại có người nói: "Nếu bà ko có 1 người đàn ông cho mình, có thể lấy 1 con mèo mà gừ gừ với nó suốt đêm."
"Nhìn lên trời xem, lũ sếu đang bay về phía nam. Còn chúng tôi, chúng tôi sẽ đi về đâu? Các đồng chí, hãy giúp chúng tôi."
Ôi, đàn bà! Những ánh mắt phụ nữ thật đáng sợ - sống động, sôi nổi, giận dữ, ấu trĩ, bạn có thể thấy như có cả 1 tên giết người trong họ. Những phụ nữ này đã mang cả bánh cho những người đàn ông của họ ở Kursk, cách đây 200km.
Bí thư RAIKOM (Đảng uỷ) địa phương nói: "Tới gặp tôi đi, các bạn. Tôi có rượu mạnh và những phụ nữ ko quá già."
Đêm thứ 2, chuông điện thoại reo vang. Mới đầu tôi nghĩ nó là dành cho tôi. Bọn Đức đã bị đẩy lui. Chúng tôi nhóm lửa trong bếp lò. Ánh lửa lò khơi lên nỗi đau của ai đó. 1 cô gái xinh xắn với đôi mắt đen láy thông minh nói khẽ: "Anh đang ngồi trên chỗ của bố em đấy." Các cô gái, họ căm thù Hitler, kẻ đã mang những chàng trai của họ đi, cả âm nhạc, khiêu vũ và ca hát.
Binh lính hành quân trong bóng tối. Một cô gái chạy tới quan sát họ: "Để tìm xem có anh tôi không". Trông cô như một con búp bê với gương mặt tròn, cặp mắt xanh và đôi môi xinh xắn. Cũng đôi môi đó đã nói những lời sau đầy về một bé gái mới lên một tuổi đang khóc nhè: "Giá nó chết đi thì tốt hơn. Bới đi một miệng ăn."
1 thương binh được mang tới đây đêm qua. Anh ta thở hổn hển và khóc. 2 người phụ nữ khóc cùng anh ta suốt đêm, họ đang cắt những cái băng dính đầy máu cho anh. Anh bắt đầu thấy đỡ hơn. Cánh đàn ông sợ phải mang anh tới bệnh viện trong đêm, vì thế anh phải nằm đây tới khi trời sáng.
Những edinolochnik (nông dân cá thể) đang sơn trắng khatas (nhà kiểu Ukraina) của họ nhìn chúng tôi với ánh mắt thách thức: "Đó là để đón lễ Phục sinh."
Hàm ý đằng sau những dấu hiệu dị thường trong mùa thu năm đó cho thấy họ đang chuẩn bị chào đón 1 sự kiện vui mừng bậc nhất. 1 số sử gia giải thích rằng người Đức với dấu hiệu chữ thập đen sơn trên chiến xa được xem là người đem nền tự do Thiên chúa giáo tới cho người dân vốn bị chèn ép bởi chế độ Soviet vô thần. Nhiều người Ukraina đã chào đón quân Đức bằng bánh mì và muối, nhiều cô gái Ukraina đã vui vẻ làm vợ lính Đức. Thật khó để đánh giá mức độ của hiện tượng này bằng phương pháp thống kê thông thường nhưng nên lưu ý Abwehr, Cục Tình báo Quân đội Đức, đã cho biết có thể gây dựng 1 đội quân gồm hàng triệu người Ukraina nhằm chống lại Hồng quân. Tuy nhiên đề xuất này đã bị Hitler thẳng thừng bác bỏ, hắn cảm thấy ghê tởm viễn cảnh những người Slavơ sẽ chiến đấu trong bộ quân phục Đức.
Trong làng Kamenka có 1 ngôi nhà với 3 phụ nữ làm chủ. Họ nói thứ tiếng pha trộn giữa tiếng Ukraina và tiếng Nga. Họ đi xem những lính Đức bị bắt. 1 trong số đó, tên đeo kính, là 1 hoạ sĩ. Tên kia là sinh viên, hắn vừa mới dậy, đùa với lũ trẻ 1 lúc rồi lại nằm xuống. Người phụ nữ già hỏi luôn mồm: "Thật sự thì người Đức tin vào Chúa chứ?" Bên ngoài nhiều lời đồn đại về tình hình các vùng bọn Đức chiếm đóng đang lan truyền trong làng. "Các starosta (**) đang chia ruộng đất ra thành từng mảnh," và nhiều tin đồn tương tự.
Chúng tôi mất cả buổi tối để giải thích cho họ bọn Đức thực sự là như thế nào. Họ nghe, thở dài, mắt láo liên nhưng ko chịu cho biết suy nghĩ thật trong đầu. 1 bà già thản nhiên nói: "Cái gì đã qua chúng tôi thấy rồi, cái gì sẽ tới chúng tôi cũng khắc thấy."
Đầu người lái 1 chiếc xe tăng hạng nặng bị thổi bay bởi 1 phát đại bác, chiếc tăng cứ thế đi tiếp vì xác anh ta đè lên chân ga. Chiếc tăng đi xuyên qua rừng, húc đổ cây cối rồi tiến thẳng vào ngôi làng chúng tôi đang ở. Người lái tăng ko đầu vẫn ngồi nguyên trong xe.
(*) Nước Cộng hoà Đức tại Volga (Volga German Autonomous Soviet Socialist Republic): 1 nước cộng hoà tự trị nằm ở lưu vực sông Volga trong thành phần Liên bang Soviet, tồn tại từ năm 1918 tới năm 1941 với phần lớn cư dân là người Đức di cư sang Nga từ năm 1897 (số liệu năm 1939 là 366.000 người gốc Đức, chiếm 60% dân số). Khi Đức xâm lược Nga năm 1941, người Đức bị coi là kẻ thù dân tộc nên Stalin đã ra lệnh xoá sổ nước cộng hoà này, chuyển toàn bộ người gốc Đức tới Kazakhstan và Siberia. - Maseo
(**) Starosta: trưởng lão. Thời Nga Sa hoàng có những starosta của nhà thờ và starosta của làng. Đó thường là những nông dân giàu nhất hoặc có uy tín nhất. Người Đức tái lập hệ thống này, dùng chức danh starosta như trưởng làng. "Chia ruộng đất thành từng mảnh" có nghĩa là phân chia lại các nông trang tập thể đáng ghét, trả ruộng đất cho người cày theo đơn vị hộ cá thể.
Trong thời gian làm việc quanh khu vực Glukhov, Grossman đã được biết về Trung đoàn 395 Bộ binh do Thiếu tá Babadzhanyan chỉ huy đã liều mạng chiến đấu trên 1 vùng đất nhỏ hẹp bên bờ tây sông Kleven. "Grossman đã quyết định viết về trung đoàn anh hùng này," Ortenberg viết, "và muốn vượt sông để gặp Babadzhanyan. Cục Chính trị ko cho phép điều đó mặc cho Grossman phản đối. Sau này khi Grossman hỏi thăm về số phận Trung đoàn 395, ông được kể rằng trung đoàn đã hoàn thành nhiệm vụ 1 cách dũng cảm nhưng chịu thiệt hại rất nặng, và trung đoàn trưởng Thiếu tá Babadzhanyan cũng nằm trong số những người hy sinh. Grossman đã mô tả lại điều này trong tác phẩm "Nhân dân bất diệt" với tên người trung đoàn trưởng được giữ nguyên."
Grossman cũng viết về những sự kiện xảy ra ngay sau chiến tranh vì với ông Thiếu tá Babadzhanyan đã trở thành biểu tượng cho phẩm chất sẵn sàng vượt qua nghịch cảnh của người lính Hồng quân.
Lần đầu tiên chúng tôi, những phóng viên quân đội, nghe thấy cái tên Babadzhanyan là ở Ukraina trong những ngày khó khăn tháng 9/1941, khi chúng tôi đang ở gần Glukhov. Lúa mì chín nẫu, nặng trĩu trên đồng, hoa quả rụng, cà chua thối trong vườn rau, dưa chuột và cải bắp héo rũ, những bắp ngô ko được thu hoạch khô quắt lại trên thân cây. Những khoảng trống trong rừng phủ 1 thảm hoa, nấm mọc dưới gốc cây và lẫn trong cỏ.
Cuộc sống con người trở nên đáng sợ trong mùa thu Ukraina rạng rỡ này. Ban đêm bầu trời đỏ rực bởi hàng tá đám cháy khắp nơi, ban ngày tấm màn xám của khói bốc lên che khuất chân trời. Phụ nữ bồng con trong tay, người già, những bầy cừu, bò và ngựa của nông trang tập thể chìm trong màn bụi đang đi về phía đông trên những con đường tỉnh lộ, bằng xe kéo hoặc đi bộ. Những chiếc máy kéo gầm lên chói tai. Tàu hoả chất đầy máy móc, động cơ, nồi hơi của các nhà máy đi về phía đông suốt ngày đêm.
Hàng ngàn máy bay Đức liên tục bay vù vù trên trời, mặt đất rên rỉ dưới bánh xích những cỗ chiến xa Đức. Những xích sắt đó đã bò qua đầm lầy và sông ngòi, nghiến nát mặt đất và những thân người. Bọn sĩ quan Đức được huấn luyện bài bản dẫn các tiểu đoàn và trung đoàn phát xít tiến về phía đông, xuyên qua khói bụi.
Babadzhanyan lần đầu tiên nhìn thấy lính Đức là vào mùa hè năm 1941, khi quân ta rút khỏi Smolensk. 1 viên sĩ quan Đức má đỏ gay bảnh bao, vì muốn tránh bụi đất đang bốc lên dưới hàng ngàn chiếc ủng và bánh xe, đã rời khỏi con đường. Ko ai nghe 1 tiếng súng tắc nghẹn vì tiếng bánh xe lăn, tiếng ngựa hí, tiếng gầm của động cơ xe. Viên sĩ quan Đức ngã xuống 1 bụi rậm và vài phút sau, Babadzhanyan đã cầm trong tay giấy tờ lấy từ xác hắn. Trong số giấy tờ có 1 quyển sổ bìa da mới, trang đầu là những từ tiếng Đức và lời dịch tiếng Nga: "Mày là tù binh"; "Giơ tay lên"; "Làng này tên gì?"; "Còn bao nhiêu km nữa thì tới Moscow?"
Babadzhanyan nhìn những khuôn mặt xám xịt mệt mỏi của nhóm trinh sát, nhìn những căn nhà xám xịt trong ngôi làng nhỏ bé và ko có khả năng phòng vệ, nhìn dòng chảy ko dứt của lính Đức, và bỗng chốc, trong đau đớn, giận dữ và lo lắng, rút mẩu bút chì đỏ trong túi ra viết những chữ lớn vào cuốn sổ: "Chúng mày sẽ ko bao giờ thấy được Moscow! 1 ngày kia chúng tao sẽ hỏi: "Còn bao nhiêu km nữa thì tới Berlin?", ngày đó sẽ tới!"
Tình hình lúc đó hết sức tuyệt vọng khiến cho mọi người, kể cả Grossman, đều sung sướng tin vào bất kỳ lời đồn đại nào về tình trạng xuống tinh thần của bọn Đức và những vấn đề chúng đang gặp phải. Phần lớn các câu chuyện đó, thường là chuyện bọn SS và Gestapo bắt lính Đức chiến đấu, đều rất thiển cận, nói chỉ để mà nói.
Những tên Đức mà Tiểu đoàn dự bị 159 bắt được nói tâm trạng chung của lính Đức là muốn bỏ cuộc. Phần lớn xác chết của lính và cả nhiều hạ sĩ quan Đức được tìm thấy đều có truyền đơn và báo Nga trong mình. 5 tờ báo Soviet đã được tìm thấy trong người 1 unteroffizier (*), tờ mới nhất là báo ngày 27/7. Bên cạnh đó còn tìm thấy 1 bản tóm tắt kết quả của 2 tháng tấn công nước Nga và những tờ báo Đức. Các con số được gạch chân bằng bút đỏ để so sánh.
1 tiểu đoàn Đức què quặt được bổ sung bằng lính Gestapo và SS cho đủ quân số. Chúng chỉ được dùng làm đơn vị dự bị.
Trong 1 trận pháo kích bằng súng cối vào Novaya, nhiều tên Đức đã nhảy xuống 1 con suối. Hàng chục tên đã chết đuối trong đó có cả 1 sĩ quan. Lính trinh sát báo cáo đã nghe thấy nhiều tiếng rú khủng khiếp.
Hơn 1.500 tên Đức bị thương nặng đã được ghi nhận, tất cả chúng đã được đưa về Đức. Có báo cáo về những bệnh viện dã chiến lớn ở khu vực Kletnya, trong các bệnh viện này có tới hơn 4.000 thương binh Đức. Bọn Đức còn chưa kịp đem chúng đi thì đã lại có những thương binh mới đổ tới.
Nhiệm vụ trinh sát vào ngày 11. Trung sĩ Nikolaev và lính Hồng quân Dedyulya dẫn 6 người đi tóm 1 "cái lưỡi" (**). Nikolaev nghe được từ dân địa phương về sự di chuyển của xe cộ trong vùng. Nhóm trinh sát tổ chức 1 cuộc mai phục trong khu rừng ven đường. Họ ném lựu đạn vào 3 tên lính mô tô đi sau cùng. Dedyulya hạ 2 tên và bắt sống tên còn lại, hắn tên là Alvin Gunt.
Grossman được nghe câu chuyện vui về 1 chiếc xe thiết giáp Đức bị bỏ lại bên vệ đường. 1 ông nhóc "với 1 khối vuông" (tức thiếu uý) đang ngồi tên đó.
"Anh sẽ bị bắn mất," 1 viên trung uý cảnh báo.
"Nhưng ai bắn?" Ông nhóc trả lời. "Bọn Đức sẽ nghĩ đây là xe của chúng còn quân ta sẽ bỏ chạy khi nhìn thấy nó." 1 câu chuyện cười buồn.
Bầu trời là của bọn Đức, trong hàng tuần lễ chúng tôi chẳng nhìn thấy cái máy bay ta nào.
(*) Unteroffizier: Cấp hạ sĩ quan trong quân đội Đức tương đương trung sĩ, thường chỉ huy 1 tổ gồm 9 - 10 người thực hiện 1 nhiệm vụ nào đó - Maseo
(**) "Cái lưỡi" là tiếng lóng của Hồng quân chỉ lính địch, thường là lính gác hoặc anh nuôi, bị 1 nhóm trinh sát bắt để thẩm vấn.
Thông điệp này nằm bên trong mặt dây chuyền của trung uý Miroshnikov đã hi sinh: "Nếu ai đó đủ can đảm gỡ thông điệp này khỏi mặt dây chuyền xin hảy gửi nó tới địa chỉ sau ... "Các con trai của ta, bố đang ở 1 thế giới khác. Hãy gặp bố ở đó nhưng trước hết hãy trút căm thù lên đầu giặc. Tiến lên, vì chiến thắng, các con và bạn bè hãy chiến đấu cho Đất Mẹ, cho Stalin vĩ đại." "
Câu chuyện của 1 chính uỷ lữ đoàn:
1 sĩ quan hậu cần cấp 2, người vừa thoát khỏi vòng vây bằng cách xuyên qua chiến tuyến địch, đã bất ngờ bắn chính uỷ và trung đoàn trưởng của mình vì họ nghi anh ta là gián điệp. Hắn lấy tư trang và tiền của họ và chôn các xác chết trong 1 chuồng gia súc. Tay sĩ quan hậu cần này đã bị bắn trước mặt các sĩ quan sư đoàn, người bắn là viên đại tá cao tuổi nhất sư đoàn.
Grossman ko thể cưỡng lại thú vui mô tả chi tiết về con người địa phương, thậm chí cả những người chẳng có việc gì làm trong chiến tranh.
1 bà già có 3 người con trai câm, cả 3 đều là thợ cắt tóc. "Đứa lớn nhất đã hơn 50 tuổi rồi," bà nói. "Chúng vẫn đánh nhau như quỷ và cãi nhau như ngựa, chúng còn lấy dao phi nhau suốt."
Những thợ quét vôi và thợ đá khi cáu ông chủ thuê họ thường giấu vào trong tường 1 quả trứng hay 1 hộp đầy gián (với chút cám để chúng ăn). Quả trứng sẽ bốc mùi còn lũ gián sẽ kêu sột soạt để làm chủ nhà phải khổ sở.
Trong thời gian làm việc quanh khu vực Glukhov, Grossman đã được biết về Trung đoàn 395 Bộ binh do Thiếu tá Babadzhanyan chỉ huy đã liều mạng chiến đấu trên 1 vùng đất nhỏ hẹp bên bờ tây sông Kleven. "Grossman đã quyết định viết về trung đoàn anh hùng này," Ortenberg viết, "và muốn vượt sông để gặp Babadzhanyan. Cục Chính trị ko cho phép điều đó mặc cho Grossman phản đối. Sau này khi Grossman hỏi thăm về số phận Trung đoàn 395, ông được kể rằng trung đoàn đã hoàn thành nhiệm vụ 1 cách dũng cảm nhưng chịu thiệt hại rất nặng, và trung đoàn trưởng Thiếu tá Babadzhanyan cũng nằm trong số những người hy sinh. Grossman đã mô tả lại điều này trong tác phẩm "Nhân dân bất diệt" với tên người trung đoàn trưởng được giữ nguyên."
Grossman cũng viết về những sự kiện xảy ra ngay sau chiến tranh vì với ông Thiếu tá Babadzhanyan đã trở thành biểu tượng cho phẩm chất sẵn sàng vượt qua nghịch cảnh của người lính Hồng quân.
Lần đầu tiên chúng tôi, những phóng viên quân đội, nghe thấy cái tên Babadzhanyan là ở Ukraina trong những ngày khó khăn tháng 9/1941, khi chúng tôi đang ở gần Glukhov. Lúa mì chín nẫu, nặng trĩu trên đồng, hoa quả rụng, cà chua thối trong vườn rau, dưa chuột và cải bắp héo rũ, những bắp ngô ko được thu hoạch khô quắt lại trên thân cây. Những khoảng trống trong rừng phủ 1 thảm hoa, nấm mọc dưới gốc cây và lẫn trong cỏ.
Cuộc sống con người trở nên đáng sợ trong mùa thu Ukraina rạng rỡ này. Ban đêm bầu trời đỏ rực bởi hàng tá đám cháy khắp nơi, ban ngày tấm màn xám của khói bốc lên che khuất chân trời. Phụ nữ bồng con trong tay, người già, những bầy cừu, bò và ngựa của nông trang tập thể chìm trong màn bụi đang đi về phía đông trên những con đường tỉnh lộ, bằng xe kéo hoặc đi bộ. Những chiếc máy kéo gầm lên chói tai. Tàu hoả chất đầy máy móc, động cơ, nồi hơi của các nhà máy đi về phía đông suốt ngày đêm.
Hàng ngàn máy bay Đức liên tục bay vù vù trên trời, mặt đất rên rỉ dưới bánh xích những cỗ chiến xa Đức. Những xích sắt đó đã bò qua đầm lầy và sông ngòi, nghiến nát mặt đất và những thân người. Bọn sĩ quan Đức được huấn luyện bài bản dẫn các tiểu đoàn và trung đoàn phát xít tiến về phía đông, xuyên qua khói bụi.
Babadzhanyan lần đầu tiên nhìn thấy lính Đức là vào mùa hè năm 1941, khi quân ta rút khỏi Smolensk. 1 viên sĩ quan Đức má đỏ gay bảnh bao, vì muốn tránh bụi đất đang bốc lên dưới hàng ngàn chiếc ủng và bánh xe, đã rời khỏi con đường. Ko ai nghe 1 tiếng súng tắc nghẹn vì tiếng bánh xe lăn, tiếng ngựa hí, tiếng gầm của động cơ xe. Viên sĩ quan Đức ngã xuống 1 bụi rậm và vài phút sau, Babadzhanyan đã cầm trong tay giấy tờ lấy từ xác hắn. Trong số giấy tờ có 1 quyển sổ bìa da mới, trang đầu là những từ tiếng Đức và lời dịch tiếng Nga: "Mày là tù binh"; "Giơ tay lên"; "Làng này tên gì?"; "Còn bao nhiêu km nữa thì tới Moscow?"
Babadzhanyan nhìn những khuôn mặt xám xịt mệt mỏi của nhóm trinh sát, nhìn những căn nhà xám xịt trong ngôi làng nhỏ bé và ko có khả năng phòng vệ, nhìn dòng chảy ko dứt của lính Đức, và bỗng chốc, trong đau đớn, giận dữ và lo lắng, rút mẩu bút chì đỏ trong túi ra viết những chữ lớn vào cuốn sổ: "Chúng mày sẽ ko bao giờ thấy được Moscow! 1 ngày kia chúng tao sẽ hỏi: "Còn bao nhiêu km nữa thì tới Berlin?", ngày đó sẽ tới!"
Tình hình lúc đó hết sức tuyệt vọng khiến cho mọi người, kể cả Grossman, đều sung sướng tin vào bất kỳ lời đồn đại nào về tình trạng xuống tinh thần của bọn Đức và những vấn đề chúng đang gặp phải. Phần lớn các câu chuyện đó, thường là chuyện bọn SS và Gestapo bắt lính Đức chiến đấu, đều rất thiển cận, nói chỉ để mà nói.
Những tên Đức mà Tiểu đoàn dự bị 159 bắt được nói tâm trạng chung của lính Đức là muốn bỏ cuộc. Phần lớn xác chết của lính và cả nhiều hạ sĩ quan Đức được tìm thấy đều có truyền đơn và báo Nga trong mình. 5 tờ báo Soviet đã được tìm thấy trong người 1 unteroffizier (*), tờ mới nhất là báo ngày 27/7. Bên cạnh đó còn tìm thấy 1 bản tóm tắt kết quả của 2 tháng tấn công nước Nga và những tờ báo Đức. Các con số được gạch chân bằng bút đỏ để so sánh.
1 tiểu đoàn Đức què quặt được bổ sung bằng lính Gestapo và SS cho đủ quân số. Chúng chỉ được dùng làm đơn vị dự bị.
Trong 1 trận pháo kích bằng súng cối vào Novaya, nhiều tên Đức đã nhảy xuống 1 con suối. Hàng chục tên đã chết đuối trong đó có cả 1 sĩ quan. Lính trinh sát báo cáo đã nghe thấy nhiều tiếng rú khủng khiếp.
Hơn 1.500 tên Đức bị thương nặng đã được ghi nhận, tất cả chúng đã được đưa về Đức. Có báo cáo về những bệnh viện dã chiến lớn ở khu vực Kletnya, trong các bệnh viện này có tới hơn 4.000 thương binh Đức. Bọn Đức còn chưa kịp đem chúng đi thì đã lại có những thương binh mới đổ tới.
Nhiệm vụ trinh sát vào ngày 11. Trung sĩ Nikolaev và lính Hồng quân Dedyulya dẫn 6 người đi tóm 1 "cái lưỡi" (**). Nikolaev nghe được từ dân địa phương về sự di chuyển của xe cộ trong vùng. Nhóm trinh sát tổ chức 1 cuộc mai phục trong khu rừng ven đường. Họ ném lựu đạn vào 3 tên lính mô tô đi sau cùng. Dedyulya hạ 2 tên và bắt sống tên còn lại, hắn tên là Alvin Gunt.
Grossman được nghe câu chuyện vui về 1 chiếc xe thiết giáp Đức bị bỏ lại bên vệ đường. 1 ông nhóc "với 1 khối vuông" (tức thiếu uý) đang ngồi tên đó.
"Anh sẽ bị bắn mất," 1 viên trung uý cảnh báo.
"Nhưng ai bắn?" Ông nhóc trả lời. "Bọn Đức sẽ nghĩ đây là xe của chúng còn quân ta sẽ bỏ chạy khi nhìn thấy nó." 1 câu chuyện cười buồn.
Bầu trời là của bọn Đức, trong hàng tuần lễ chúng tôi chẳng nhìn thấy cái máy bay ta nào.
(*) Unteroffizier: Cấp hạ sĩ quan trong quân đội Đức tương đương trung sĩ, thường chỉ huy 1 tổ gồm 9 - 10 người thực hiện 1 nhiệm vụ nào đó - Maseo
(**) "Cái lưỡi" là tiếng lóng của Hồng quân chỉ lính địch, thường là lính gác hoặc anh nuôi, bị 1 nhóm trinh sát bắt để thẩm vấn.
Thông điệp này nằm bên trong mặt dây chuyền của trung uý Miroshnikov đã hi sinh: "Nếu ai đó đủ can đảm gỡ thông điệp này khỏi mặt dây chuyền xin hảy gửi nó tới địa chỉ sau ... "Các con trai của ta, bố đang ở 1 thế giới khác. Hãy gặp bố ở đó nhưng trước hết hãy trút căm thù lên đầu giặc. Tiến lên, vì chiến thắng, các con và bạn bè hãy chiến đấu cho Đất Mẹ, cho Stalin vĩ đại." "
Câu chuyện của 1 chính uỷ lữ đoàn:
1 sĩ quan hậu cần cấp 2, người vừa thoát khỏi vòng vây bằng cách xuyên qua chiến tuyến địch, đã bất ngờ bắn chính uỷ và trung đoàn trưởng của mình vì họ nghi anh ta là gián điệp. Hắn lấy tư trang và tiền của họ và chôn các xác chết trong 1 chuồng gia súc. Tay sĩ quan hậu cần này đã bị bắn trước mặt các sĩ quan sư đoàn, người bắn là viên đại tá cao tuổi nhất sư đoàn.
Grossman ko thể cưỡng lại thú vui mô tả chi tiết về con người địa phương, thậm chí cả những người chẳng có việc gì làm trong chiến tranh.
1 bà già có 3 người con trai câm, cả 3 đều là thợ cắt tóc. "Đứa lớn nhất đã hơn 50 tuổi rồi," bà nói. "Chúng vẫn đánh nhau như quỷ và cãi nhau như ngựa, chúng còn lấy dao phi nhau suốt."
Những thợ quét vôi và thợ đá khi cáu ông chủ thuê họ thường giấu vào trong tường 1 quả trứng hay 1 hộp đầy gián (với chút cám để chúng ăn). Quả trứng sẽ bốc mùi còn lũ gián sẽ kêu sột soạt để làm chủ nhà phải khổ sở.
Trong tuần cuối cùng của tháng 9, Grossman có mặt trong cuộc thẩm vấn có vẻ rất dớ dẩn và khôi hài với 1 lính lái mô tô người Áo. Viên sĩ quan quân báo đã bỏ lơ lời khoác lác của tên tù binh là có hàng trăm xe tăng Đức tại khu vực này. Chỉ sau này Grossman mới biết rằng chúng có lẽ là 1 phần của Cụm Thiết giáp 2 do Guderian chỉ huy đang tái bố trí cho cuộc tấn công tiếp theo sau khi vây Kiev. Hoàn toàn do may mắn, trong vài tuần tiếp theo Grossman và Troyanovsky đã nhiều lần đi ngay trước mũi những chiếc xe tăng của Guderian, 1 lần nữa ông lại vừa kịp thoát khỏi bị chúng bắt. Cương vị phóng viên chiến tranh sẽ ko thể cứu Grossman nếu ông bị bắt, gần như chắc chắn ông sẽ bị coi là 1 "chính uỷ Do Thái" và bị bắn.
Trong nhóm của Ermakov đóng tại làng Pustogorod (*), tại ban chính trị có 1 cô gái Do Thái xinh đẹp, người đã thoát được khỏi vòng vây của bọn Đức, có đôi mắt sáng rực.
Tên lính mô tô phát xít bị thẩm vấn đêm trong ngôi nhà mà ban chính trị đóng. Hắn là 1 người Áo cao to đẹp trai. Mọi người ngắm nhìn chiếc áo khoác da màu ánh thép dài và mềm mại của hắn. Ai cũng sờ thử, lắc lắc gấu áo. Điều đó có nghĩa là: sao trên đời lại có thể có 1 tay chiến binh được mặc thứ áo khoác như này? Phi công lái máy bay chắc cũng chỉ có những chiếc áo khoác da như thế là cùng. Phiên dịch là 1 người Do Thái chỉ vừa đủ chữ nghĩa, anh ta đang nói bằng tiếng Yiddish (**). Tên người Áo cũng lẩm bẩm bằng thứ tiếng của hắn. Cả 2 đều cố đến vã mồ hôi để hiểu nhau nhưng mồ hôi có lẽ chỉ đem đến những kết quả hạn chế trong công việc này. Quá trình thẩm vấn diễn ra rất khó khăn. Tên người Áo loay hoay liên tục, lúc nhìn ra cửa, lúc đấm ngực kể lại rằng hắn đã thấy hàng đàn xe tăng của Guderian trong khu vực này, 1 con số khổng lồ - "500! Ở đây, ở đây, ngay gần các ông." Hắn giơ tay làm điệu bộ về khoảng cách gần đó là đến mức nào.
"Nó nói gì thế?" viên sĩ quan quân báo nôn nóng hỏi. Phiên dịch viên nhún vai 1 cách bối rối. "Hắn thấy 1 số lượng xe tăng lên tới 500 chiếc."
"Ồ, quỷ quái thật. Hắn phải nói tên những địa danh đơn vị hắn đã đi qua từ Đức tới mặt trận," viên sĩ quan quân báo to lớn vừa nói vừa xem bản câu hỏi. Ôi, những người tai to mặt lớn.(***)
Đêm trong căn nhà của các nữ giáo viên, 1 căn hộ của trí tuệ: có những cuốn sách tôi thường đọc làm gợi lên nhiều ký ức. Những cuốn sách tôi đọc thời thơ ấu và cả những vật dụng gắn với thời kỳ đó: gạt tàn làm bằng vỏ sò, giá nến, album, đồng hồ treo tường, 1 cây cọ trồng trong chậu ... Suốt đêm, Kolomeitsev và tôi bất ngờ cảm thấy 1 nỗi lo lắng điên rồ. Chúng tôi bật dậy như thể có lệnh báo động, mặc quần áo chạy ra sân. Chúng tôi lắng nghe trong im lặng thật lâu, phía tây vẫn im ắng. Bọn Đức đang ở cách đây 50km.
Grossman sau đó quay lại qua Sevsk (cách Bryansk 120km về phía nam) để trở lại Orel.
Sevsk. Chúng tôi được cho biết xe bọc thép Đức đã ở đây hôm qua. 2 sĩ quan đi ra, nhìn quanh rồi đi mất. Chỗ này được xem là quá xa chiến tuyến.
Grossman và Troyanovsky vẫn chưa hoàn toàn nhận thức được mối nguy hiểm. Họ phóng xe về phía bắc tới Orel, tại đó họ dừng lại, chỉ 1 lúc thôi, cư dân địa phương hỏi tin họ.
1 cụ già hỏi: "Các anh rút từ đâu về thế?"
(*) Pustogorod nằm ở vùng Sumy cách Glukhov khoảng 50km về phía bắc - đông bắc.
(**) Yiddish: thứ tiếng Đức cổ của người Do Thái ở Trung và Đông Âu - Maseo.
(***) Thiết lập con đường chính xác các đơn vị Đức đã đi từ biên giới Soviet là 1 ưu tiên cao trong các cuộc thẩm vấn tù binh của quân Nga. Điều này giúp thiết lập mối liên hệ giữa các đơn vị phát xít với các cuộc thảm sát mà chúng gây ra. Thông tin thu được từ các cuộc thẩm vấn này chiếm phần lớn trong các phiên toà xét xử tướng lĩnh Đức sau chiến tranh.
SÁU
QUÂN ĐỨC CHIẾM OREL
Vào thời điểm Grossman và Troyanovsky trở lại Orel, tình hình đã trở nên nguy hiểm. Chiến dịch Typhoon của quân Đức nhằm hướng Moscow đã bắt đầu vào ngày 30/9 với việc lực lượng đột kích của Guderian tấn công Phương diện quân Bryansk do tướng Yeremenko chỉ huy. Tập đoàn quân 50 của tướng Petrov mà Grossman vừa mới tới thăm đã bị Tập đoàn quân 2 Đức cắt rời. Bản thân Orel cũng bị Quân đoàn Thiết giáp 24 thuộc lực lượng của Guderian đe doạ.
Lời kể của Grossman bắt đầu từ ngày 2/10 về trận đánh chiếm Orel hơi khác với kiểu tường thuật thông thường. Nó cho biết xe tăng Đức đã ào ạt xông vào thành phố với số lượng đáng ngạc nhiên vào cuối buổi chiều ngày 3/10, chèn qua cả những chiếc xe điện trên phố. Mặc dù các giới chức quân sự vẫn tỏ ra tự tin đến mức đáng kinh ngạc, mô tả của ông đã chỉ ra rằng 1 số lượng lớn thường dân đã nhận thức rõ mối nguy và cố gắng chạy thoát trước khi lực lượng thiết giáp Đức tới.
Orel, lại là Orel. Máy bay vụt qua. Những chiếc xe tải. Người lớn bồng trẻ em trên tay. Những đứa trẻ ngồi trên những gói đồ. Tiếng gầm rú suốt đêm: cả thành phố đang trên đường di chuyển. Chúng tôi lại vào khách sạn cũ, 1 khách sạn tỉnh lẻ bình thường nhưng giờ đây nó có vẻ như 1 toà lâu đài vì nó vẫn giữ được sự bình lặng khi tất cả đang ra đi thế này.
Có 1 tấm bản đồ Châu Âu dành cho học sinh. Chúng tôi lại xem và kinh hoàng vì khoảng cách mà quân ta đã rút. Tôi ra ngoài hành lang tới bên 1 phóng viên ảnh tên là Redkin, tôi đã từng gặp anh ta ở nhiều sở chỉ huy tiền phương, trông anh ta có vẻ kích động: "Bọn Đức đang lao thẳng về phía Orel, chúng có hàng trăm xe tăng. Tôi chỉ vừa kịp thoát dưới làn đạn. Chúng ta phải rời khỏi đây ngay nếu ko sẽ bị chúng bắt sống ở đây." Rồi anh ta kể cho chúng tôi rằng anh ta đang ngồi trong 1 góc yên tĩnh bên cạnh sở chỉ huy để ăn tối thì bất ngờ nghe thấy 1 tiếng động. Mọi người nhìn ra cửa sổ và thấy 1 sĩ quan NKVD đang chạy qua, người anh ta phủ đầy bột mì. Thì ra anh ta đang phóng xe ở cách đó chỉ mấy cây số mà ko hề biết mình đã ở gần bọn Đức đến mức nào, cho đến khi bất ngờ 1 chiếc tăng quay tháp pháo và nổ súng vào chiếc xe tải mà anh ta đang dùng để chở những bao bột mì. "Xe tăng ở khắp nơi!" Redkin lao ra xe phóng về Orel, xe tăng Đức cũng tiến theo con đường đó mà chẳng gặp sức chống cự nào. Redkin cho chúng tôi biết thông tin này 1 cách sợ hãi, hơi thở hổn hển.
Tôi vào phòng của 2 viên sĩ quan tôi biết: 1 thiếu tá rậm râu và 1 đại uý phụ trách hành quân. Tôi hỏi họ có biết gì về việc bọn Đức đã chọc thủng chiến tuyến ko, họ nhìn lại tôi 1 cách đần độn, đầy vẻ tự tin ngu ngốc. "Điều đó là vô lý," họ nói và lại tiếp tục nhậu.
Cả thành phố nhốn nháo suốt đêm, ô tô chạy ko ngừng. Đến sáng thành phố đã đầy vẻ sợ hãi và thảm hại như thể đang có bệnh dịch. Tiếng kêu khóc và sự hỗn loạn lan cả vào khách sạn. Tôi cố gắng thanh toán tiền phòng, chẳng ai muốn nhận tiền, tôi phải bắt 1 phụ nữ chịu trách nhiệm ở đây cầm 7 rúp, tôi cũng chẳng biết sao mình phải làm thế. Mọi người tay sách nách mang chạy qua phố, 1 số mang theo con nhỏ. Viên thiếu tá "chiến lược gia vĩ đại" và tay đại uý cũng lao qua chỗ tôi, mặt đầy vẻ ngượng ngùng. Chúng tôi tới sở chỉ huy quân sự địa phương nhưng họ ko cho vào nếu ko có giấy phép. Đám văn thư và sĩ quan cấp thấp cứ trơ ra dù chúng tôi đã nói giấy phép chỉ có thể được phát sau 10h sáng. Chúng tôi phải chờ thêm 1 tiếng đồng hồ, các vị chỉ huy sẽ ko tỏ ra nao núng đến trước 11h. Ôi, tôi biết quá rõ được những kẻ mặt trơ trán bóng tưởng như ko gì lay chuyển nổi này, chúng chỉ là sản phẩm của sự ngu dốt và chúng có thể ngay lập tức chuyển sang sợ hãi và hoảng loạn đến điên cuồng. Tôi đã thấy tất cả những chuyện đó trước đây - ở Gomel, Bezhitsk, Shchors, Mena, Chernigov, Glukhov.
Chúng tôi chặn 1 đại tá quen lại: "Có thể tới sở chỉ huy Phương diện quân bằng đường cao tốc Bryansk ko?"
"Có thể," ông ta nói, "nhưng gần như chắc chắn xe tăng Đức đã tới chỗ đó rồi."
Sau đó chúng tôi tới banya (nhà tắm hơi) rồi phóng ra đường cao tốc Bryansk. Ko bao giờ nói tới chết chóc! 1 nữ bác sĩ quân y người gốc Georgian cùng đi. Cô cũng phải tới hậu cứ sở chỉ huy Phương diện quân. Cô hát những bài tình ca suốt dọc đường bằng 1 giọng cực kỳ giả tạo. Cô ta vừa rời khỏi khu vực hậu cứ và chưa hề có chút ý niệm gì về mối nguy hiểm mà chúng tôi đang lao đầu vào. Tất cả chúng tôi, những thính giả của cô, suốt thời gian đó luôn nhìn kỹ phía trái, chú ý mọi chuyển động. Con đường trống, chẳng có cỗ xe nào, người đi bộ cũng ko có, ko có xe ngựa luôn, mọi thứ như đã chết! 1 ko khí đáng sợ bao trùm vì con đường hoàn toàn trống ko, đơn vị cuối cùng của quân ta đã rút và đơn vị địch đầu tiên có thể xuất hiện bất kỳ lúc nào. Con đường trống ko này giờ đây giống như 1 vùng cấm no-man-land nằm giữa 2 chiến tuyến.
Chúng tôi tới được rừng Bryansk an toàn, nơi đây gần như là nhà của chúng tôi. Xe tăng Đức tiến theo cùng con đường cao tốc chúng tôi vừa đi chỉ 2h sau đó. Bọn Đức tiến vào Orel vào 6h tối theo đường Kromy (từ hướng nam). Có lẽ chúng cũng tắm trong cùng banya đã hun nóng chúng tôi lúc sáng.
Trong căn nhà izba của chúng tôi đêm đó, tôi bất thần nhớ tới cuộc thẩm vấn tên người Áo mặc chiếc áo khoác da đắt tiền dưới ánh sáng đèn. Đây chính là hàng đống tăng mà hắn đã nhắc tới!
Vào đêm 3/10/1941 đó, Grossman vẫn chưa biết rằng 1 mũi thiết giáp của Guderian đã đánh bọc hậu cắt rời Phương diện quân Bryansk của tướng Yeremenko, vì vậy nhóm của ông trong rừng còn lâu mới an toàn. Trong vòng 2 ngày Phương diện quân Bryansk hầu như bị tiêu diệt. Yeremenko chờ gần suốt đêm 5/10 cho 1 cú phôn từ Stalin cho phép "vận động phòng thủ" - cách nói khác của rút lui. Và đến sáng sớm ngày 6/10 sở chỉ huy của ông đã nhận ra rằng mối đe doạ đã quá lớn, quân Đức đã gần như chặn được con đường thoát cuối cùng.
Chính uỷ ban tham mưu gọi chúng tôi đến bảo: "Đúng 4h sáng, ko chậm 1 phút, các anh phải đi khỏi đây theo đường kia." Ông ta ko buồn cho chúng tôi lời giải thích nào, nhưng dù sao điều đó cũng chẳng cần thiết. Mọi thứ đã rõ ràng, đặc biệt là sau khi chúng tôi xem bản đồ. Sở chỉ huy quân ta đã lọt vào trong 1 cái túi. Quân Đức tiến từ bên phải tới Sukhinichi và từ bên trái tới Bolkhov từ Orel trong khi chúng tôi vẫn còn ngồi trong 1 khu rừng gần Bryansk. Chúng tôi quay về nhà và bắt đầu đóng gói đồ đạc: những tấm đệm, ghế, đèn, túi. Tay Petlyura bần tiện thậm chí còn cố mang theo 1 đống quả nam việt quất (cranbery) giấu trên gác mái. Chúng tôi chất tất cả mọi thứ lên chiếc xe tải mà tướng Yeremenko dành cho và ra đi vào đúng 4h dưới bầu trời quang đãng đầy sao và cái lạnh của mùa thu. Chúng tôi đang ở trong 1 cuộc đua, hoặc sẽ thoát khỏi cái túi trước khi nó khép miệng, hoặc bị bọn Đức nhét vào trong đó.
Tập đoàn quân 50 mà Grossman tới thăm ngay trước đó đã cố gắng đánh mở đường ra khỏi rừng Bryansk. Chính uỷ cấp lữ đoàn Shlyapin cũng giống như tướng Petrov đều lọt vào vòng vây. Xác Petrov được tìm thấy trong 1 hốc cây gẫy nằm sâu trong rừng gần Belev trong tình trạng thối rữa. Cái chết của Shlyapin đến nay vẫn còn chưa rõ ràng, ko nghi ngờ gì nữa, điều đó giải thích tại sao Grossman muốn đưa ông vào tác phẩm "Nhân dân bất diệt". Ngày 4/10, Grossman và các đồng sự khi thấy cả nhóm đang ở 1 mình tại 1 nơi rất xa mới xác định được là đã thoát.
Tôi nghĩ mình đang thấy cảnh rút chạy, nhưng tôi chưa từng thấy điều gì giống những điều tôi đang thấy, thậm chí chưa từng tưởng tượng ra chuyện gì giống thế này. 1 cuộc thiên di! 1 cuộc thiên di như trong kinh thánh! Xe chạy thành 8 làn, hàng tá xe tải đồng loạt gầm rú 1 cách hung dữ để cố làm quay bánh xe trong những vũng bùn. Những bầy cừu và bò khổng lồ được lùa qua cánh đồng. Chúng đi theo những cỗ xe ngựa kéo, có hàng ngàn cỗ xe như vậy phủ đầy quần áo vải vóc nhiều màu, đồ gỗ, đồ hộp. Trên đó là những người đang rời bỏ Ukraina. Cũng có cả những đám đông người đi bộ mang theo túi, hòm xiểng, vali.
Đó ko phải 1 con suối mà là cả 1 dòng sông đang chầm chậm đổ ra biển, 1 dòng chảy rộng hàng trăm mét. Những đứa trẻ thò đầu ra khỏi những tấm bạt phủ xe ngắm nhìn những bộ râu của những cụ già Do Thái, khăn trùm của những phụ nữ nông dân, mũ của đàn ông Ukraina và mái tóc đen của những cô gái Do Thái. Ánh mắt họ mới câm lặng làm sao, buồn mênh mang làm sao, những ánh mắt như cảm nhận được số phận đầy tai ương!
Trời tối dần, mặt trời lặn sau những tầng mây xanh, đen và xám. Những tia sáng mở rộng ra, kéo dài từ trên trời xuống đất như bức hoạ của Doré mô tả cảnh tượng khủng khiếp trong kinh thánh khi bầu trời tấn công mặt đất. Sự di chuyển của những cụ già, những phụ nữ bồng con trên tay, những đàn cừu và những chiến binh trong ánh mặt trời vàng trông thật tráng lệ và bi kịch. Có những khoảnh khắc tôi cảm thấy những hình ảnh đó thật sinh động như thời gian quay trở lại kỷ nguyên của những thảm kịch trong kinh thánh.
Ai nấy đều chú ý quan sát bầu trời, ko phải vì họ đang chờ đợi Messiah (*) mà là đang canh chừng những máy bay ném bom Đức. Bất đồ có tiếng thét: "Chúng đấy! Chúng đang tới, chúng hướng thẳng về phía chúng ta!"
Hàng tá máy bay lướt trên bầu trời 1 cách chậm rãi theo từng tốp tạo thành hình tam giác. Chúng đang tiến về phía chúng tôi. Hàng tá, rồi hàng trăm người leo ra khỏi thùng xe tải, nhảy khỏi cabin chạy vào rừng. Ai nấy đều bị lây nỗi sợ hãi, mọi người bỏ chạy thành từng đám ngày 1 lớn hơn. Sau rốt họ nghe thấy tiếng la hét của 1 phụ nữ: "Lũ nhát chết, lũ nhát chết, chúng chỉ bay qua thôi mà!" Thật là lộn xộn.
(*)Messiah: Người được lựa chọn hay Đấng tiên tri. Theo truyền thuyết Do Thái, Messiah được coi là vua tương lai của Do Thái, người sẽ dẫn dắt dân Do Thái lập ra nhà nước Israel và là tín sứ đưa họ đến với Kỷ nguyên Messianic - Maseo.
Nghỉ đêm ở Komarichi. Vài sĩ quan tham mưu đã tới đó từ trước, 1 viên đại tá khuyên chúng tôi đừng đi ngủ mà hãy tới thăm ông ta bất cứ lúc nào. Bản thân ông ta hoàn toàn ko biết gì, ko có phương tiện liên lạc nào, vậy đến chỗ ông ta thì chúng tôi có được tin tức gì? Troyanovsky nói anh ta sẽ lo vụ đến thăm viên đại tá nhưng bất ngờ anh ta biến mất, tất cả chúng tôi đều điên tiết vì điều đó nhưng sau đó bắt đầu lo: ông mãnh này đã biến mất ko dấu vết. Lysov và tôi đành đi gặp viên đại tá và trong những lúc tạm nghỉ chú ý nhìn qua cửa sổ tìm kiếm, tưởng tượng ra hàng tá giả thuyết về sự biến mất của Troyanovsky. Tôi đi ra sân và bất thần nghe thấy những tiếng động tắc nghẹt phát ra từ chiếc Emka của chúng tôi. Tôi mở cửa, chàng trai mất tích đang ở đó vui vẻ cùng cô cháu gái bà chủ nhà. Cả tôi và hắn đều bối rối. Tôi lôi Troyanovsky ra khỏi xe đưa vào nhà, tại đó tất cả chúng tôi tổng sỉ vả anh ta. "Anh có biết tất cả chúng ta đang ở hoàn cảnh nào ko, đồ trẻ người non dạ, quân trơ trẽn!"
Vâng, hắn hiểu mọi thứ và đồng ý với mọi điều, hắn rất xin lỗi. Tuy vậy mặt hắn đầy vẻ sung sướng và thoả mãn, hắn lại còn ngáp và vươn vai nữa chứ. Điều đó đương nhiên làm chúng tôi tức điên lên. Chúng tôi chẳng có dù chỉ 1 nửa vụ vui vẻ của hắn. Cô cháu gái quay vào izba. Ồ, vẻ mặt cô ta thật bình thản và cam chịu. 1 khuôn mặt có thể vẽ thành bức tranh mang tựa đề "Vô tội", "Tinh khiết" hay "Thanh xuân". Thật là lộn ruột. Đến rạng đông chúng tôi lại ra đi.
Cuộc đua lại tiếp diễn: ai nhanh hơn, bọn Đức hay chúng tôi? Chúng tôi cho các nhân viên y tế ở bệnh viện địa phương đi nhờ xe tải. Các bác sĩ ko quen đi bộ, họ đã hoàn toàn kiệt sức. Chúng tôi chở họ tới Belev, viên bác sĩ già nhất cám ơn chúng tôi thống thiết bằng những mỹ từ như thế này: "Các bạn đã cứu mạng chúng tôi." 1 cụ già cao quý, mấy cô "bác sĩ" thậm chí còn ko thèm chào từ biệt chúng tôi. Họ lấy đồ đạc rồi vội vàng chạy ra ga.
Belev, với 1 con dốc dẫn vào thị trấn, lầy lội kinh khủng, những con phố hẹp và ko hẹp lắm ko thể chứa nổi những đám người đổ tới từ những con đường làng. Vô số lời đồn đại điên rồ loan truyền, chúng đều lố bịch và hoàn toàn do sự sợ hãi sinh ra. Bất ngờ, 1 cơn bão đạn điên cuồng nổ ra. Thì ra ai đó đã bật đèn đường, thế là lính tráng và sĩ quan nổ súng vào những bóng đèn đó để tắt chúng đi. Giá mà họ cũng bắn như vậy vào bọn Đức. Họ chẳng cần biết việc nổ súng bừa bãi đó gây kinh hoàng ở khắp nơi, mọi người đều nghĩ bọn Đức đã tấn công đến đây. Còn có thể là điều gì khác nữa chứ?
Chúng tôi ngủ trong 1 căn phòng tồi tàn đến mức quái dị. Thật đáng sợ, cảnh tồi tàn đen đủi là thứ duy nhất ở thị trấn này, khu ổ chuột này. Bà chủ nhà, 1 con voi răng mấu thực sự với giọng nói khàn đặc, bốp chát, tục tĩu, rít lên với trẻ con và mọi thứ. Tôi đã nghĩ - tất cả chúng tôi đều nghĩ thế - bà ta thật cặn bã, đúng là quân vô lại, nhưng sau đó thấy rằng bà ta cũng tốt, rộng rãi, chu đáo. Khi chuẩn bị cái giường giẻ rách bên cửa cho chúng tôi bà ta mới lo lắng làm sao, và bữa ăn mà bà ta thết đãi chúng tôi nữa chứ!
Đến đêm, trong bóng tối tôi nghe thấy tiếng ai đó thổn thức: "Ai thế?" Bà chủ nhà trả lời bằng giọng thì thào khàn khàn: "Là tôi. Tôi có 7 đứa con. Tôi đang khóc cho chúng nó." Sự nghèo nàn ở nơi thành thị này về mặt nào đó còn tệ hơn kiểu nghèo ở nông thôn. Nó sâu sắc hơn và đen tối hơn, sự thiếu thốn vây chặt thậm chí cả trong không khí và ánh sáng.
Trong 1 izba, có 1 tờ báo từ trước chiến tranh dán trên tường thay cho giấy dán tường. Chúng tôi xem nó và nói: "Nhìn này, tất cả đều nói về thời bình." Hôm sau chúng tôi thấy 1 ngôi nhà khác dán tường bằng báo thời chiến, nếu ngôi nhà sống sót được qua cuộc chiến này, 1 ngày nào đó người ta sẽ nói: "Xem này, 1 tờ báo thời chiến!"
Chúng tôi qua đêm gần Belev, trong ngôi nhà của 1 cô giáo trẻ. Cô ta rất đẹp và rất ngốc, đúng là 1 con cừu non. 1 cô bạn gái của cô cũng nghỉ đêm ở đó. Cô ta cũng rất trẻ nhưng ko xinh lắm. Các cô gái thì thào suốt đêm, tranh cãi nhau nhiệt tình. Sáng ra chúng tôi được biết cô giáo đang chuẩn bị bỏ nhà sơ tán về phía đông, trong khi đó cô bạn lại quyết định đi về phía tây để gặp người họ hàng đang sống ở bên kia Belev. Điều đó có nghĩa là sang vùng địch tạm chiếm.
Cô giáo của chúng tôi xin đi nhờ, chúng tôi đồng ý. Tôi gọi chiếc xe tải 1 tấn rưỡi của mình là Chiếc Thuyền Nô Ê. Nó đã từng cứu hàng tá người khỏi cơn lũ đang tràn tới từ phía tây. Mắt 2 cô gái đỏ hoe vì khóc suốt đêm qua. Trong những ngày đó ai cũng khóc suốt đêm và cam chịu, dửng dưng, nhẫn nại vào ban ngày. Chúng tôi gói ghém đồ đạc, và cô chủ nhà trẻ trung của chúng tôi tới bên chiếc xe tải với 1 cái túi bé xíu. Cô ko muốn mang đi những gương, những rèm, những lọ nước hoa, thậm chí ko mang theo cả váy áo. "Tôi chẳng cần gì hết," cô nói. Tôi nghĩ tôi đã đánh giá thấp tinh thần và suy nghĩ của cô gái 18 tuổi này.
Chúng tôi cố thuyết phục cô bạn của cô đi cùng. Khuôn mặt cô ta lạnh băng, môi mím chặt, cô ta chẳng nói lời nào và cũng chẳng nhìn mặt chúng tôi. 2 cô gái tạm biệt nhau 1 cách lạnh lùng, thậm chí còn ko vẫy tay với nhau.
"Nổ máy, đi thôi!" Vâng, những vấn đề xảy ra đã làm cho các cô gái 18 tuổi trở nên quyết tâm, ko để ý đến những thứ lặt vặt nữa. Vào phút cuối, chúng tôi trở vào căn phòng nhỏ xinh xắn của cô gái, lúc này cô ta đã ngồi sẵn trong xe tải. Giờ chẳng còn ai trong phòng. Chúng tôi đánh bóng giầy bằng kem thoa mặt và cổ áo trắng. Tôi nghĩ chúng tôi làm điều đó để làm rõ với bản thân rằng cuộc sống đã và đang bị huỷ hoại.
BẢY
CUỘC RÚT LUI TRƯỚC MOSCOW
Stalin ko có phản ứng gì trước tình hình ngày càng nghiêm trọng của Phương diện quân Bryansk cho tới tận ngày 5/10. Hôm đó các máy bay tiêm kích tuần tiễu của ko quân Hồng quân đã phát hiện 1 hàng thiết giáp Đức dài tới 12 mile tiến về Yukhno. Tổng hành dinh (Stavka) tức Bộ Tổng tham mưu Hồng quân tại Moscow, từ chối chấp nhận bản báo cáo này và các thông tin chứng thực gián tiếp khác. Beria thậm chí còn định cho bắt viên sĩ quan ko quân dính líu đến việc này và kết tội anh ta phao tin chủ bại, thế nhưng Stalin đã bừng tỉnh trước mối đe doạ với Thủ đô.
Chỉ có 1 thứ duy nhất có thể làm chậm bước tiến của bọn Đức hướng về Moscow trong giai đoạn này, đó là rasputitsa, thời kỳ lầy lội trước mùa đông đang diễn ra vào thời gian này. Sau 1 trận tuyết rơi và băng giá ngắn vào ngày 6/10, tuyết đã tan nhanh vào sáng hôm sau. Grossman mô tả lại việc đó.
Tôi ko nghĩ đã từng có ai thấy cảnh bùn lầy đến mức này. Trời mưa, tuyết rơi, mưa đá, tất cả biến thành 1 đầm lầy lõng bõng nước với bùn nhão đen sì được nhào trộn bởi hàng nghìn hàng vạn chiếc ủng, bánh xe, bánh xích. Và mọi người lại 1 lần nữa cảm thấy sung sướng. Bọn Đức sẽ phải sa lầy trong mùa thu địa ngục của chúng ta, cả trên trời lẫn dưới đất. Bằng bất kỳ giá nào, chúng tôi cũng phải thoát khỏi cái túi, ngày mai cúng tôi sẽ tới đường cao tốc Tula.
Ngôi làng gần Tula. Những căn nhà gạch. Đêm. Tuyết và mưa. Mọi người run cầm cập, đặc biệt là những người đang ngồi trên Chiếc Thuyền Nô Ê: Chính uỷ cấp trung đoàn Konstantinov, 1 thầy giáo, và Baru, phóng viên tờ Stalinsky Sokol (*). Lysov, Troyanovsky và tôi được ấm hơn: chúng tôi đang ngồi trong chiếc Emka. Những chiếc xe đỗ giữa 1 con đường làng tối thui. Petlyura, 1 nhà ảo thuật thực sự vì có thể kiếm được sữa và táo ngay dưới chiến hào, biến mất trong bóng đêm. Nhưng đây là lần đầu tiên anh ta thất bại. Chúng tôi bước vào 1 izba tối và lạnh, như 1 hầm mộ. Trong izba, 1 bà già 70 tuổi đang ngồi trong bóng tối và cái lạnh, bà đang hát. Bà vui mừng và thiết tha chào đón chúng tôi như thể đang còn trẻ, ko hề càu nhàu hay than vãn mặc dù nhìn bề ngoài bà có đủ mọi lý do để phàn nàn về số phận của mình.
Con gái bà, 1 công nhân, đã đưa bà tới làng này để sống cùng con trai bà, bản thân cô ta thì đã quay về Moscow. Người con trai này là chủ tịch nông trang tập thể ở đây, ko thể chấp nhận để bà sống cùng nhà vì vợ ông ta ko chịu. Bà vợ này cũng cấm chồng mình giúp đỡ mẹ, vì vậy bà già phải sống nhờ lòng tốt của mọi người. Thỉnh thoảng anh con trai bí mật mang cho bà 1 ít kê hoặc khoai tây. Người con trai út, Vanya, làm việc trong 1 nhà máy ở Tula rồi đi lính tình nguyện. Anh ta đang chiến đấu gần Smolensk nhưng bà ko nhận được 1 bức thư nào của anh đã từ 1 tháng nay. Vanya là đứa con được bà thương yêu nhất.
Bà kể cho chúng tôi toàn bộ câu chuyện bằng giọng chân thành và bình thản, ko hề có vẻ chua xót, oán thán, đau khổ hay trách móc. Với lòng rộng lượng như 1 bà hoàng, bà cho đám người đói rét chúng tôi tất cả: số củi cuối cùng (chừng hơn chục thanh) đủ cho bà dùng trong 1 tuần, 1 vốc muối, bà cho đi hết ko giữ lại 1 chút lúa mì nào, nửa xô khoai tây. Bà chỉ giữ lại hơn chục củ để trong cái túi bện bằng rơm đặt bên gối và cái chăn rách. Bà có 1 cái đèn dầu, khi người lái xe của chúng tôi định rót vào đó chút nhiên liệu bà đã ko đồng ý: "Các anh sẽ cần số xăng đó cho mình." Và bà mang ra 1 cái chai nhỏ đựng số dầu dự trữ quý giá của mình đổ vào đèn.
Sau khi tiếp đãi chúng tôi bằng tình cảm nống ấm, cho chúng tôi ăn, cho ánh sáng và những cái giường mềm mại, bà quay lại với góc lạnh lẽo trong căn nhà izba của mình. Bà ngồi đó và lại bắt đầu hát.
Tôi tới bên bà nói: "Bà ơi, bà sẽ ngủ ở đây trong bóng tối, cái lạnh, trên tấm phản này sao?" Bà chỉ dùng tay xua tôi đi. "Bà sống 1 mình ở đây thế nào đây? Bà phải ngủ trong tối tăm lạnh lẽo suốt thế àh?"
"Àh ừ, ta ngồi trong bóng tối, hát hay tự kể chuyện cho mình nghe." Bà đun 1 nồi khoai tây, chúng tôi ăn rồi đi ngủ, bà bắt đầu hát cho chúng tôi nghe bằng giọng khàn khàn, giống giọng 1 ông già.
"Ồ, ta đã từng rất khoẻ mạnh, y như 1 con ngựa giống," bà nói với tôi. "Quỷ dữ đã đến gặp ta đêm qua và túm lấy tay ta bằng những móng vuốt của nó. Ta bắt đầu cầu Chúa: "Sáng danh Chúa, kẻ thù của Ngài hãy tan biến đi." Và ta chẳng còn chú ý gì tới Quỷ dữ nữa. Sau đó ta bắt đầu nguyền rủa nó và nó chuồn thẳng. Vanya của ta cũng đến với ta đêm qua, nó ngồi trên ghế nhìn ra cửa sổ. Ta gọi nó: "Vanya, Vanya!" Nhưng nó ko trả lời."
(*) Stalinsky Sokol - Con chim ưng của Stalin, tờ báo của ko quân Hồng quân.
Nếu chúng ta chiến thắng được cuộc chiến khủng khiếp, tàn bạo này, đó là bởi đất nước ta có những trái tim cao quý như thế, những con người thiện lương như thế, những tâm hồn rộng lượng như thế. Những người mẹ, người vợ cao quý mà mộc mạc đó đang cho đi cả cuộc sống của mình vì đất nước giống như bà cụ Tula này đang rộng rãi trao cho chúng tôi tất cả những gì bà có. Nếu còn những người như vậy trên đất nước ta, chúng ta sẽ chiến thắng.
Sự rộng lượng cao quý của con người cùng khổ này làm tất cả chúng tôi rung động. Sáng ra chúng tôi trao cho bà tất cả đồ tiếp tế chúng tôi có, các bác tài của chúng tôi, trong 1 cơn tốt bụng đến rồ dại, đã đi cướp bóc khắp vùng vô số củi và khoai tây đủ để bà cụ dùng đến tận mùa xuân. "Ôi chao ơi bà lão này," Petlyura nói khi chúng tôi lên đường, vừa nói vừa lắc đầu.
Ngay sau khi tới được tuyến đường Orel - Tula, Grossman tạt qua Yasnaya Polyana, điền trang của Tolstoy, cách Tula khoảng 20km về phía nam. Ông thuyết phục các đồng sự rằng họ nên qua thăm chỗ đó. Khi đến nơi mọi thứ đã thay đổi, có thể người tiếp theo mà cả nhóm viếng thăm sẽ là tướng Guderian, hắn đã quyết định biến điền trang của nhà văn thành sở chỉ huy cho cuộc tấn công vào Moscow.
Yasnaya Polyana. Tôi đề nghị mọi người tạt qua đó. Chiếc Emka rời khỏi con đường cao tốc kinh hoàng và đau khổ, Chiếc Thuyền Nô Ê theo sau. Ai đó có thể nhìn thấy những mái xanh và tường trắng của những ngôi nhà nằm giữa những khu vườn mùa thu vàng óng. Cánh cổng mà Chekhov trong lần đầu tiên tới đây đã chỉ bước tới chỗ này rồi quay về vì lo rằng ông sẽ chỉ được gặp Tolstoy trong vài phút. Ông đã đi bộ trở ra ga và quay về Moscow. Con đường dẫn tới ngôi nhà phủ đầy lá đỏ, da cam và vàng, nó thật là đẹp. Nhưng khung cảnh xung quanh càng đáng yêu bao nhiêu thì mọi người lại càng cảm thấy buồn phiền vì những gì đang xảy ra lúc này bấy nhiêu.
Có 1 vẻ lộn xộn đáng sợ như thể sắp có 1 cuộc ra đi trong ngôi nhà này. Hàng đống hòm xiểng, những bức tường trống hoác, bất đồ tôi có 1 cảm giác mãnh liệt và khủng khiếp rằng chỗ này đã hoá thành Lysye Gory, nơi này lão công tước già cả ốm yếu đang chuẩn bị đi sơ tán (*). Mọi thứ hoàn toàn giống hệt, những sự kiện xảy ra 1 thế kỷ trước và những gì đang xảy ra hôm nay. Và những gì cuốn sách miêu tả về tình trạng sức khoẻ và tính chân thật của lão công tước Bolkonsky giờ có vẻ như đang tiếp tục xảy ra với bản thân vị bá tước già Tolstoy, hiện thực và hư cấu đã hoà làm 1.
(*)Công tước Bolkonsky trong tác phẩm "Chiến tranh và Hoà bình" đã phải rời dinh thự Lysye Gory của ông vì nó nằm trên đường tiến của Đại quân Napoleon.
Gặp Sofya Andreevna (*), bà vẫn bình tĩnh nhưng có vẻ chán nản. Bà nói Bí thư Đảng uỷ địa phương đã hứa giao cho bà vài toa tàu hoả để sơ tán khu bảo tàng nhưng bà ko dám chắc lời hứa này còn thực hiện được, giờ bọn Đức đã ở quá gần và đang tiến rất nhanh. Chúng tôi nói chuyện về Moscow và những người bạn đã qua đời, sau đó im lặng suy nghĩ về số phận hẩm hiu của họ. Thế rồi chúng tôi lại thảo luận về đề tài mà mọi người lúc này đều đang nói tới với sự đau đớn, hoang mang và thất vọng: cuộc rút lui.
Mộ của Tolstoy. Máy bay gầm rú trên đầu, những tiếng nổ vang lên nhưng cảnh mùa thu ở đây vẫn bình yên lạ thường. Thật là khó chịu, tôi hiếm khi cảm thấy đau buồn như lúc này.
Tula như đang bị bao phủ bởi 1 bệnh dịch chết người, chúng tôi đã từng thấy thứ bệnh dịch đáng sợ này dày vò Gomel, Chernigov, Glukhov, Orel và Bolkhov. Điều đó thực sự cũng đang xảy ra với Tula? Mọi thứ trở nên hoàn toàn lộn xộn. 1 sĩ quan phát hiện ra tôi trong căng tin quân đội ở Voentorg, anh ta đề nghị tôi tới OBKOM (Tỉnh uỷ - Danngoc). 1 đặc phái viên của Tổng hành dinh (Stavka) đang ở đó, ông ta đang muốn hỏi tôi sở chỉ huy Phương diện quân Bryansk lúc này đang ở đâu vì ông cần gửi 1 số đơn vị tới đó. Những mảnh vụn của các sư đoàn đang đổ về. Họ nói chỉ 1 phần Tập đoàn quân 50 thoát được khỏi vòng vây. Petrov và Shlyapin đang ở đâu? Valya, cô y tá đã chơi domino và bật máy hát cho chúng tôi nghe bài "Chiếc khăn xanh nho nhỏ", đang ở đâu?
Trên các con phố đầy người, họ đi trên vỉa hè lát đá và cả dưới lòng đường, vậy mà cũng vẫn ko đủ chỗ. Mọi người mang theo hòm xiểng, xô chậu, vali. Chúng tôi tìm được 1 phòng trong 1 khách sạn, tại đây chúng tôi chạm mặt với tất cả các nhóm phóng viên khác. Krylov, người đã chạy trốn cùng chúng tôi từ Phương diện quân Trung tâm, cũng ở đây. Các phóng viên đều đã tìm được chỗ trú chân trong khách sạn này, 1 số còn lao vào thực hiện vài phi vụ chớp nhoáng.
Chúng tôi tạm biệt người bạn đồng hành, cô giáo mà chúng tôi đã dùng kem bôi mặt và cổ áo của cô để lau ủng. Đêm đó chiếc xe tải của chúng tôi đã thực hiện sứ mệnh Chiếc Thuyến Nô Ê lần cuối: chúng tôi cho gia đình các nhân viên văn phòng báo chí Tula (**) đi nhờ ra ga, đem theo cả tư trang. Petlyura tỏ ra tức giận: "Đáng lẽ ta phải bắt họ trả tiền chứ." Nhưng Seryozha Vasiliev, tài xế Chiếc Thuyền Nô Ê, ko chấp nhận điều đó. Anh ta là người cực kỳ tốt, 1 người đồng chí tử tế và khiêm nhường.
Đột nhiên trong đêm có 1 cuộc điện đàm từ Moscow trên đường dây nóng. Có lệnh quay về Moscow. Ai nấy đều vui mừng 1 cách quá đáng đến mức vô lý, suốt đêm ko ngủ.
(*) Sofya Andreevna: Cháu gọi Leo Tolstoy bằng ông.
(**) Có lẽ là chi nhánh của tờ Krasnaya Zvezda.
Trên con chiến mã Emka, chuyến đi 200km về phía bắc từ Tula đến Thủ đô Soviet có lẽ chỉ mất độ 1 ngày.
Moscow. Các công sự nằm bên vệ đường ngày càng dày đặc, đặc biệt là từ vùng ngoại ô vào đến trong thành phố.
Cả nhóm chúng tôi làm 1 việc xa xỉ là đi cạo râu tại 1 tiệm cắt tóc nằm trên Quảng trường Serpukhovskaya. Những người dân tỏ ra tốt bụng và lịch sự, họ nhường chúng tôi vào trước, hỏi han về chiến sự. Xong xuôi chúng tôi ko về nhà mà đến thẳng ban biên tập (của tờ Krasnaya Zvezda).
Tổng biên tập Ortenberg tới gặp chúng tôi, ông chỉ mặt chúng tôi hỏi: "Tại sao các anh rời Sở chỉ huy Phương diện quân Bryansk?"
"Chúng tôi được lệnh rời khỏi đó, và vì thế chúng tôi đi, sau khi tất cả các phóng viên khác đã đi hết."
"Sao các anh ko viết gì về cuộc phòng thủ anh hùng ở Orel?"
"Vì chẳng có cuộc phòng thủ nào hết."
"Thôi được rồi, các anh có thể đi. 6h sáng mai các anh - Grossman, Troyanovsky và Lysov - sẽ quay lại mặt trận."
Mọi người đều nói Ortenberg là 1 vị Tổng biên tập tốt, có lẽ thế thật. Nhưng cái con người đến từ 1 thị trấn tỉnh lẻ, thậm chí chưa tốt nghiệp cấp 2 này mới ngạo mạn làm sao trước mặt cấp dưới, y như 1 tên quý tộc La mã. Sau hàng tháng trời ở mặt trận, ông ta thậm chí ko thèm hỏi đám thuộc hạ chúng tôi, dù chỉ là xã giao, xem chúng tôi cảm thấy thế nào hay chúng tôi có khoẻ ko.
Ortenberg sau đó cũng cảm thấy ko phải với cách cư xử của mình. Đây là những gì ông viết về những sự việc xảy ra vào ngày 7/10.
Thông báo buổi sáng và buổi tối của Thông tấn xã đều nói cùng 1 điều như từ đầu tháng tới giờ: chiến sự ác liệt với quân thù diễn ra khắp nơi. Chẳng có gì về tình hình tại các phương diện quân Tây và Bryansk. Orel thì đã thất thủ, tôi biết được điều đó từ Stavka.
Các phóng viên của chúng tôi ở Phương diện quân Bryansk, Pavel Troyanovsky và Vasily Grossman, những người vừa rời khỏi Orel cũng xác nhận điều đó. Tôi đã thấy chiếc Emka của họ - đầy những vết mảnh đạn. Các thành viên ban biên tập tụ họp quanh chiếc xe, họ xem xét nó, lắc đầu và nói thế này: "Hãy xem những gì mà các đồng chí của chúng ta đã phải vượt qua! Họ thật may mắn mới sống sót mà thoát về được."
Sau khi đứng với đám bạn bè bên chiếc Emka, Grossman và Troyanovsky vào trình diện tôi và kể về tình trạng thảm hoạ tại mặt trận. Tôi chăm chú nghe những gì họ nói nhưng ko thể nhịn được trước những lời khó nghe. Đương nhiên, tờ báo ko thể đăng báo cáo của họ về phòng tuyến của Phương diện quân Bryansk đã bị chọc thủng và việc Orel bị chiếm trước khi có thông tin chính thức. Tuy vậy chúng tôi nghĩ rằng bất kỳ trận đánh nào, thậm chí dù là trận thua thảm hại nhất của quân ta, cũng có những hành động anh hùng hay những kỳ tích, những điều đó cần phải được viết ra!
Tôi nói thẳng với Grossman và Troyanovsky: "Chúng tôi ko cần chiếc Emka đầy vết đạn của các anh. Chúng tôi cần nguyên liệu cho những bài báo. Quay lại mặt trận!" Điều đó có lẽ ko được công bằng cho lắm. Tôi ko muốn bào chữa cho cách cư xử như vậy, thậm chí dù bây giờ tôi biết chắc chắn các phóng viên đặc biệt này đã phải rất dũng cảm mới có thể tiến hành 1 cuộc vượt thoát kỳ diệu khỏi vòng vây quân địch. Khi nhìn vào những khuôn mặt thất thần và lo lắng của họ, những người thực sự can đảm, lẽ ra tôi phải tìm ra vài từ đẹp đẽ hơn mới phải. Nhưng hãy nhớ lại thời gian đó, ko ai được tự cho phép mình tỏ ra uỷ mị!
Ngay sau đó Grossman và Troyanovsky sẽ phải tới chỗ Quân đoàn I Bộ binh của Thiếu tướng D. D. Lelyushenko, đơn vị đã cố gắng suốt cả ngày hôm đó để chặn bước tiến của địch gần Mtsensk. Sự lưu ý của tôi giờ là về chiếc Emka đầy vết đạn lúc này bắt đầu lượn vòng trước tiền sảnh toà soạn và tất nhiên là các sĩ quan phóng viên của tôi ngoài mặt trận.
Mặc dù Ortenberg đã ra lệnh quay lại mặt trận ngay sáng sớm ngày mai, Grossman vẫn tranh thủ tạt qua thăm cha đêm đó.
Tôi về nhà 1 lúc thăm Cha và Zhenni Genrikhovna (*). Tôi nói với Cha về nỗi lo lớn nhất của tôi, nhưng cái này ko cần phải viết ra đây. Nỗi lo lắng ấy luôn ở trong tim tôi suốt ngày đêm. Mẹ còn sống ko? Ko! Tôi biết, tôi cảm nhận được điều đó.
1 bộ phận Quân đoàn Bộ binh Cận vệ I của Lelyushenko gồm 2 sư đoàn bộ binh và 2 lữ đoàn tăng đã được ko vận tới khu vực Orel theo lệnh trực tiếp từ Stalin để ngăn quân Đức chọc thủng phòng tuyến (**). Mtsensk, nơi những chiếc T34 của Lữ đoàn 4 Xe tăng dưới quyền chỉ huy của Đại tá Katukov mở cuộc phản công, nằm cách Orel 50km về phía đông bắc trên cong đường từ Tula đến Moscow. Cả Lelyushenko và Katukov đều trở thành các vị chỉ huy nổi tiếng của các Tập đoàn quân Xe tăng Cận vệ trong trận công phá Berlin 4 năm sau đó.
Chúng tôi khởi hành vào buổi sáng trên con đường vừa mới đi hôm qua khi trở về Moscow. Mọi người ở ban biên tập đều tỏ ra phẫn nộ, phàn nàn (tất nhiên chỉ dám xì xào) về việc Tổng biên tập đã ko cho chúng tôi nghỉ ngơi dù chỉ 1 ngày, và cái chính là nhiệm vụ vội vã này thật ngu xuẩn.
Chúng tôi phóng qua Serpukhov và Tula mà ko dừng lại. Thời tiết thật tồi tệ. Chúng tôi nằm trên thùng xe tải trò chuyện với nhau. Đêm xuống nhưng chúng tôi vẫn tiếp tục cuộc chạy đua. Ở Moscow chúng tôi đã được biết tên địa điểm đặt sở chỉ huy quân đoàn xe tăng: Starukhino. Chúng tôi cứ thế phóng và phóng ko ngừng nghỉ. Bộ tản nhiệt bắt đầu sôi, vì vậy chúng tôi dừng xe. Con đường hoàn toàn vắng lặng, chúng tôi đã đi hàng chục km mà ko gặp 1 chiếc xe nào.
Bất thần 1 lính Hồng quân bước ra từ sau 1 cây bulô và hỏi bằng giọng khàn khàn: "Các anh đi đâu?"
"Tới Starukhino," chúng tôi trả lời.
"Các anh bị ấm đầu àh?" Thì ra bọn Đức đã ở đó từ hôm qua. "Tôi là lính gác và chỗ này chính là chiến tuyến. Quay lại ngay, trước khi bọn Đức nhìn thấy các anh. Chúng có thể chỉ ở ngay quanh đây thôi." Tất nhiên là chúng tôi quay xe lại. Nếu bộ tản nhiệt ko sôi lên chắc sự nghiệp phóng viên của chúng tôi đã kết thúc tại đây.
Chúng tôi đi tìm sở chỉ huy trong bóng tối và bùn lầy ghê sợ. Cuối cùng cũng tìm được, nó nằm trong 1 izba nhỏ, nóng bức và ngột ngạt, mù mịt khói. Sau 14 tiếng đồng hồ ngồi xe chúng tôi lập tức cảm thấy buồn ngủ khi bước vào căn phòng ấm áp, chỉ muốn nằm lăn ra. Nhưng ko có thời gian, chúng tôi bắt đầu hỏi các sĩ quan, đọc báo cáo Ctrị, làm tất cả những điều đó trong tình trạng đầu óc mê mụ.
Đến gần sáng, chẳng nghỉ ngơi tí nào, chúng tôi lại trèo lên thùng xe tải quay về Moscow. Thời hạn nộp bài thật tàn nhẫn. Chúng tôi về đến toà soạn vào buổi tối ... Cả nhóm đốt thuốc liên tục để giữ cho mình tỉnh táo, uống trà nữa. Như cánh nhà báo thường nói, chúng tôi đã có 1 câu chuyện, và nộp bài. Tổng biên tập chẳng hề đăng lấy 1 dòng.
Mặc những thất vọng trong cuộc đời làm báo, Grossman ko hề giảm nhiệt huyết viết lách, dù đó là tiểu thuyết hay bài báo.
Ở 1 số làng ví dụ như Krasnoye, bọn Đức xây dựng các công sự bê tông bí mật trong các căn nhà. Chúng phá 1 bức tường nhà, đặt 1 khẩu đại bác trong đó và xây lên 1 bức tường bê tông.
Khi tiến vào 1 lùm cây, bọn Đức bắt đầu bằng việc bắn như điên vào đó rồi xông vào hết tốc lực.
Bọn Đức đang nã đạn. Tối tối chúng thường ra rìa 1 lùm cây và bắn bằng tiểu liên. Đại uý Baklan tiến lại gần, cách chúng khoảng 50m, và nằm xuống quan sát. Chúng phát hiện ra anh. Phản ứng của chúng làm anh nghĩ chúng bị điên. Chúng bắt đầu bỏ chạy, vừa chạy vừa bắn loạn xạ. Hàng chục quả rocket rít lên trên bầu trời, pháo bắn loạn xạ ko mục tiêu, súng máy khạc đạn, tiểu liên cũng vậy. Bọn Đức khắp vùng đều nổ súng, và Baklan vẫn nằm đó quan sát chúng với vẻ ngạc nhiên.
(*)Zhenni Genrikhovna là bà giúp việc của gia đình người nước Cộng hoà tự trị Đức trên sông Volga, bà trở thành 1 nhân vật với tên thật giữ nguyên trong cuốn "Cuộc đời và Số phận". Bà may mắn ko bị các đặc vụ bắt ở Moscow trong những ngày điên loạn tháng 10/1941 dù vẫn nói tiếng Nga bằng giọng Đức nặng.
(**)Quân đoàn Bộ binh Cận vệ 61 được thành lập ngày 27/9 thuộc lực lượng dự bị của Tổng hành dinh. Nó bao gồm Sư 5 và 6 Bộ binh Cận vệ, Lữ đoàn 2 và 4 Xe tăng. Bộ chỉ huy quân đoàn sau này trở thành nòng cốt của Tập đoàn quân 5.
[pic]
Có lẽ do gặp phải 1 vài sự gò bó trong việc viết báo, Grossman tỏ ra muốn truyền đạt những suy nghĩ và cảm nhận của ông về cuộc chiến dưới dạng tiểu thuyết. Trong giai đoạn đất nước Soviet đang chiến đấu để sống còn này, tư tưởng của ông rất gần với đường lối của Đảng. Chỉ đến trận Stalingrad 1 năm sau đó, cái nhìn của ông về chế độ cai trị Stalinist mới bắt đầu thay đổi. Những phác thảo kể trên có lẽ đã tạo nên 1 phần ý chính của cuốn "Nhân dân bất diệt", cuốn tiểu thuyết được ông viết và xuất bản vào năm sau:
Tóm tắt truyện ngắn: "Ghi chép của sĩ quan thông tin Egorov." Ý tưởng câu truyện: 1 chàng trai Soviet trẻ trung vui nhộn tham gia cuộc chiến với đầy vẻ thích thú và hiếu kỳ. Trong khói lửa chiến tranh, chứng kiến nỗi thống khổ của con người, bản thân cũng gặp phải những mất mát và đau khổ to lớn, anh trở nên 1 chiến binh lạnh lùng, cứng rắn, lòng đầy căm thù với những kẻ áp bức dân tộc anh. Chủ đề chính của câu truyện là lòng hận thù 1 mất 1 còn. Trong câu truyện này, chúng tôi muốn giới thiệu rộng rãi về cuộc phòng thủ vĩ đại của quân đội và những người chiến sĩ, của các tướng lĩnh, sĩ quan, bính lính, nông dân, công nhân, của những thành phố và làng mạc. Hàm ý bên trong: Tinh thần sắt thép của những con người Soviet, chỉ có 1 số phận cho họ đó là giành thắng lợi, tinh thần đó được tôi luyện trong ngọn lửa của các thành phố và làng mạc bị bọn Đức thiêu cháy.
Egorov chắc chắn là nguyên mẫu cho nhân vật Ignatiev trong cuốn tiểu thuyết sau này, từ 1 anh chàng may mắn vui vẻ trở thành 1 kẻ báo thù.
"Đó là sự thật, đồng chí chính uỷ ạh," anh nói, "khi tôi trở thành 1 con người khác trong cuộc chiến này: chỉ bây giờ tôi mới biết nước Nga thực sự là gì. Thành thật mà nói, mỗi khi đi qua những dòng sông, những cánh rừng bạn đều cảm thấy tiếc thương cho chúng, con tim bạn nhức nhối... Tôi nghĩ có lẽ thực sự nên để cả những cái cây nhỏ này cũng được tiến vào nước Đức?"
Thật khó để xác định chính xác những nơi Grossman đã đi qua trong giai đoạn này. Những chiến sĩ phòng thủ Soviet đã gặp may với thời tiết. Những đợt tuyết giá và tan băng bất chợt làm đường xá trở nên đặc quánh bùn lầy, làm chậm bước tiến của quân đội Đức. Ngày 14/10, Sư đoàn 10 Thiết giáp Đức và Sư SS Đế chế (Das Reich) đã tới được chiến trường cũ Borodino, 120km phía tây Moscow. Cùng lúc đó, Sư 1 Thiết giáp chiếm Kalinin trên sông Volga, phía tây bắc thủ đô, và tiến về phía nam nơi những cỗ xe tăng của Guderian đang bao vây Tula. Ngày 15/10, các đại sứ quán nước ngoài được thông báo chuẩn bị rời Moscow chuyển tới Kuibyshev. Sự sợ hãi bao trùm thủ đô. Grossman cũng như các phóng viên chiến tranh khác tuyệt vọng trong việc tìm ra bất kỳ ví dụ nào cho thấy sự xuống tinh thần của quân Đức để đem lại hy vọng cho người đọc thay vì thất vọng.
Những cuốn sổ ghi chép của Grossman - chỗ này chắc chắn bị mất 1, 2 trang - có ghi lại 1 chút những gì ông biết vào tháng 11, khi Tướng Georgi Khukov bị quân Đức tấn công bầm dập nhưng vẫn chuẩn bị cho 1 cuộc tổng phản công với lực lượng mới tới từ Siberia và Viễn Đông. Stalin cuối cùng cũng tin chắc, 1 phần bởi Richard Sorge - điệp viên Soviet ở Tokyo - nhưng cái chính là nhờ những đoạn mật mã nghe trộm từ đối phương, rằng Nhật Bản đang chuẩn bị tấn công Hải quân Mỹ ở Trân Châu Cảng trên Thái Bình Dương chứ ko phải Liên Xô.
Vào giữa tháng 11, Grossman được cho phép quay về Moscow nhưng ông đã gần phát điên khi biết cha mình đã đi mất 1 ngày trước đó. Vợ ông cùng gia đình nhiều thành viên Hội Nhà văn khác đã được sơ tán tới Chistopol.
Cha thân yêu của con, con đã vô cùng suy sụp khi về đến Moscow mà ko tìm thấy cha ở đó. Con về chỉ 1 ngày sau khi cha đi Kuibyshev. Cha thân yêu, cha con ta sẽ gặp lại nhau, xin hãy nhớ điều đó. Con hy vọng và tin chắc như vậy ... Lyusya đang làm việc chăm chỉ trong 1 nông trang tập thể ở Chistopol. Cô ấy đã trở nên mảnh mai như 1 đường ray tàu hoả. Chắc là con sẽ sớm trở lại mặt trận, có lẽ là Phương diện quân Nam.
Cuối cùng Grossman cũng gặp lại cha ở Kuibyshev vì, theo lời Ilya Ehrenburg, Grossman đã ở cùng ông tại đó 1 thời gian ngắn. "Chúng tôi ở chung 1 thời gian trong 1 căn hộ vốn được phân cho Grossman và Gabrilovich. Chúng tôi nói chuyện suốt đêm và ngồi viết suốt ngày. Vasily Grossman đã ở Kuibyshev 2 tuần khi có lệnh từ Tổng biên tập tờ Krasnaya Zvezda cho cậu ta bay tới Phương diện quân Nam. Cậu ta đã kể cho tôi rất nhiều về sự hỗn loạn và các cuộc kháng cự, trong đó 1 số đơn vị đã đứng vững, và cả về mùa màng đã ko được thu hoạch. Cậu ta cũng kể tôi nghe về Yasnaya Polyana. Đó là lúc sau này khi cậu ta bắt đầu viết cuốn tiểu thuyết "Nhân dân bất diệt", và khi tôi đọc nó sau đó, nhiều trang có vẻ rất quen thuộc với tôi. Cậu ta đã tự nhận ra mình là 1 nhà văn nhờ cuộc chiến. Các cuốn sách viết trước chiến tranh của cậu ấy ko gì hơn là sự tìm tòi đề tài và ngôn ngữ. Cậu ta thực sự là 1 người quốc tế chủ nghĩa và thường trách móc tôi vì hay gọi là "bọn Đức" thay vì "bọn Hitler" khi mô tả những hành động tàn ác của quân chiếm đóng." Ehrenburg tin rằng tinh thần đoàn kết quốc tế của Grossman đã làm vị lãnh tụ bài ngoại Stalin ghét ông.
Nhưng hoá ra là Grossman ko đến Phương diện quân Nam mà lệch về phía bắc 1 chút, tới Tập đoàn quân 21 thuộc Phương diện quân Tây Nam. Tình hình ở phía nam cũng thay đổi như chong chóng giống khu vực xung quanh Moscow. Ngày 19/11, Cụm Thiết giáp số 1 của Thống chế Von Kleist chọc thủng phòng tuyến quanh Rostov trên sông Đông, cửa ngõ vào Caucasus, nhưng các sư đoàn thiết giáp của hắn ngay sau đó bị đánh bật trở lại bởi các cuộc phản công của Nguyên soái Timoshenko. Tuyết rơi nặng hạt cũng làm quân Đức ko củng cố và mở rộng được các tuyến tiếp vận. Hitler rất tức giận vì đây là lần đầu tiên quân Đức rút lui trong cuộc chiến. Các cơ quan thông tấn Soviet đưa tin về chiến thắng này ít đến mức đáng ngạc nhiên, có lẽ vì Stalin ko muốn xác nhận rằng quân Đức đã tiến xa được tới tận Rostov.
Tại Phương diện quân Tây Nam, Grossman được cử đi theo sở chỉ huy Sư đoàn 1 Bộ binh Cận vệ do Tướng Russiyanov chỉ huy (*). Trong các cuốn sổ ghi chép của Grossman ko còn trang nào nói về chuyến đi này. Dù sao ông cũng đã để lỡ 1 trong những thời khắc kịch tính nhất trong lịch sử Moscow. Phương diện quân Kalinin ở phía bắc thành phố đã mở cuộc phản công ngày 5/12 trong điều kiện tuyết đóng dầy hơn 1m. Mặt đất đóng băng cứng như sắt và quân Đức đã phải đốt lửa dưới những cỗ chiến xa để có thể khởi động được máy xe. Phương diện quân Tây cũng tấn công ngay sau đó. Cuộc rút chạy gấp gáp đã cứu quân đội Đức khỏi thảm hoạ nhưng thủ đô Soviet cũng đã được an toàn.
Mặc dù khó có thể định rõ đâu là thời điểm chính xác, đây cũng là điểm bước ngoặt của cuộc chiến cho thấy quân Đức ko còn khả năng chiến thắng thêm nữa. Và Mỹ, nước đã cung cấp cho Hồng quân xe tải và xe jeep khiến họ có thể tiến mỗi lúc 1 nhanh trong năm 1943 và 1944, đã thấy rằng phải tham chiến. Trong tâm trạng sung sướng do thắng lợi của cuộc phản công quanh Moscow, Grossman cảm nhận được tinh thần tươi mới trong hàng ngũ quân đội Soviet.
Grossman quay lại Moscow ngày 17/12 và 3 ngày sau Ortenberg ghi chép về phương pháp làm việc của ông: "Vasily Grossman đã trở về ... Anh ta ko nộp bài báo nào cho số tới và chúng tôi cũng chẳng giục anh ta nhanh lên. Chúng tôi biết cách làm việc của anh. Mặc dù anh ta đã tự học cách viết trong bất kỳ điều kiện nào, thậm chí rất tồi tệ, trong hầm với 1 cây đèn dầu, ngoài thực địa, nằm trên giường hoặc trong 1 izba đầy người, nhưng anh ta bao giờ cũng viết chậm rãi, kiên trì truyền tải đầy đủ mọi thứ trong suốt quá trình viết." Cũng trong ngày hôm đó, 20/12, Grossman đã có cơ hội nhận được các thư từ gửi cho ông. Ông viết cho 1 người bạn, M. M. Shkapskaya.
Vẫn còn quá sớm để cho rằng số phận của con trai anh sẽ rất đen tối, chắc là nó vẫn còn sống và khoẻ mạnh. Bức thư thật quá buồn. Còn có rất nhiều người ở đây ko thể gặp được gia đình. Tinh thần của tôi hiện rất tốt, tình hình tại mặt trận tốt đẹp, rất tốt đẹp ấy chứ ... Tuy nhiên, rất có thể tôi lại mất khả năng liên lạc với mọi người: tôi đã từng rơi vào 1 trận ko kích của 5 chiếc Junker và vừa kịp thoát khỏi nhà trước khi nó bị phá huỷ bởi bom và súng máy. Đương nhiên, tôi ko định viết những chuyện như thế trong thư gửi về Chistopol.
Chistopol là nơi vợ ông, Olga Mikhailovna Guber, đang sống. Ông cũng viết thư cho bà nhưng tất nhiên là bỏ qua ko mô tả lần thoát chết trong trận ko kích đó.
Có rất nhiều người tốt xung quanh anh, cả Tvardovsky (**) cũng ở đây. Hắn là 1 thằng cha tốt. Em có thể nói với vợ cậu ấy rằng cậu ấy trông cực ổn và mọi thứ với cậu ấy hoàn toàn tốt. Anh vừa ở mặt trận về 3 hôm trước và giờ viết thư cho em. Anh đã thấy rất nhiều thứ. Mọi thứ đã khác hoàn toàn so với dạo mùa hè. Có rất nhiều chiến xa Đức hỏng nằm bên đường và trên thảo nguyên, nhiều cỗ pháo bị bỏ lại, hàng trăm xác lính Đức, mũ sắt và vũ khí của chúng nằm khắp nơi. Quân ta đang tiến lên!
Grossman giống như nhiều người Nga lúc đó trước sự đảo chiều đột ngột của chiến cuộc vào tháng 12 đã tin rằng bọn Đức đang vô cùng khổ sở với bộ quân phục mỏng manh trong mùa đông khắc nghiệt này và đang sụp đổ trước sức mạnh của cuộc tổng tấn công do Stalin khởi xướng sau các cuộc phản công ngay ngoại vi Moscow. Bài viết cuối cùng được xuất bản năm đó của ông trên tờ Krasnaya Zvezda có cái tít chán ngắt là "Đáng nguyền rủa và khinh bỉ" (Accursed and Derided).
Khi tiến vào những thủ đô Âu Châu, những tên lính frontoviki phát xít cố trông cho thật ấn tượng. Và cũng những tên lính đó tiến vào ngôi làng Nga này trong 1 buổi sáng. Chúng choàng những chiếc khăn trên đầu, 1 số đội mũ trùm đầu phụ nữ dưới mũ sắt và mặc quần nịt len của đàn bà. Nhiều tên kéo theo những chiếc xe trượt tuyết chất đầy chăn, ga trải giường, túi đựng đồ ăn hay những cái xô cũ.
Bọn Đức đóng trại trong căn izba này mới 6h trước. Giấy tờ, đồ đạc, mũ sắt của chúng vẫn còn trên bàn. Những izba mà chúng đốt vẫn còn âm ỉ cháy. Thân xác chúng bị vỡ nát bởi thép Nga nằm ngổn ngang trên tuyết. Và những người phụ nữ cảm thấy rằng cơn ác mộng những ngày qua cuối cùng cũng đã chấm dứt, bất thần kêu lên nức nở: "Ôi các anh thân mến, cuối cùng thì các anh cũng đã trở lại!"
"Àh, là thế này (1 phụ nữ kể lại). Bọn Đức tới, chúng đập cửa, xông vào nhà và đứng bên bếp lò như lũ chó ốm, răng chúng đánh vào nhau côm cốp, chúng hơ tay lên bếp, tay chúng đỏ au như thịt tươi. "Nhóm lò đi, nhóm lò!" Chúng gào lên trong tiếng răng va lập cập. Rồi, ngay khi bắt đầu thấy ấm hơn, chúng bắt đầu gãi. Nhìn chúng vừa thấy sợ vừa thấy buồn cười. Y như chó, chúng cũng gãi bằng những móng vuốt. Rận bắt đầu nhảy khỏi người chúng vì hơi ấm."
(*)Sư đoàn 1 Bộ binh Cận vệ được thành lập ngày 18/9 từ Sư đoàn 100 Bộ binh, đơn vị đã bị thiệt hại nặng trong cuộc rút lui từ Minsk về Smolensk và sau đó là cuộc phản công ở Elyna, trận đánh thắng lợi đã đem lại cho Sư đoàn danh hiệu Cận vệ. Trung tướng I. N. Russiyanov sau này chỉ huy Quân đoàn Cơ giới Cận vệ 1 trong Chiến dịch Sao Thổ Nhỏ tháng 12/1942, đây là giai đoạn cuối của trận Stalingrad.
(**)Aleksandr Trifonich Tvardovsky (1910 - 1971), nhà thơ và sau này là Tổng biên tập tạp chí văn học Novy Mir, trong ấn bản số 4 năm 1950 và số 70 năm 1958 ông đã cho in các tác phẩm "1 ngày trong cuộc đời Ivan Denisovich" (One Day in the Life of Ivan Denisovich) và "Xóm ung thư" (Cancer Ward) của Solzhenitsyn. Tvardovsky xuất thân từ 1 ngôi làng bình thường gần Smolensk. Cha ông là 1 kulak bị lưu đày dưới thời Stalin. Tuy vậy, Tvardovsky đã giành Giải thưởng Stalin với bài trường ca Strana Muraviya (Đất Muraviya) viết về 1 kulak đã thực hiện 1 chuyến đi viển vông để tìm 1 nơi nào đó trên đất nước Nga mà ko có nông trang tập thể nhưng cuối cùng trở về nhà làm trong nông trang tập thể và sống hạnh phúc.
PHẦN HAI
NĂM CỦA STALINGRAD
1942
Ở PHÍA NAM
Tháng 1/1942, Grossman được cử đi theo dõi các chiến dịch ở đông nam Kharkov theo yêu cầu của chính ông. "Vasily Grossman thuyết phục tôi cử anh ta tới Phương diện quân Tây Nam," Ortenberg viết ko lâu sau đó. "Đó là nơi anh ta đã từng sống." Grossman, mặc dù ko sinh ra và lớn lên tại đó, biết rõ vùng này nhờ thời gian làm kỹ sư mỏ ở Donbass. Trong mọi trường hợp, những bài viết của Grossman trong giai đoạn này cũng làm Ortenberg mở mắt trước năng lực của ông. "Sự thật tàn nhẫn của chiến tranh!" Ortenberg viết. "Vasily Grossman, khả năng viết lách của anh ta ngày 1 tiến triển ngay trước mắt tôi, thực sự là thế."
Ortenber có lẽ hơi ngạc nhiên vì lời đề nghị của Grossman. Các phóng viên khác đều mong mỏi được ở gần Moscow vì mọi người đều nghĩ các trận đánh then chốt sẽ diễn ra trên hướng trung tâm. Có lẽ là do Grossman bị cuốn hút bởi vùng đất đó và kẻ địch - Tập đoàn quân 6 Đức - nên đã đề nghị như vậy, việc này sẽ tạo ra 1 giai đoạn đặc biệt trong cuộc đời ông: thời kỳ ở Stalingrad.
Khi Thống chế Von Rundstedt yêu cầu OKH (Bộ chỉ huy tối cao Đức) chấp thuận cho rút về phòng tuyến sông Mius, Hitler cảm thấy bị sỉ nhục vì ý tưởng rút lui này. Rundstedt khăng khăng rằng việc này là cần thiết và xin từ chức nếu ko được chấp thuận. Hitler cách chức ông ta luôn và chỉ định Thống chế Von Reichenau, chỉ huy Tập đoàn quân 6 và là người tin tưởng nhiệt thành vào chủ nghĩa Nazi, thay thế. Nhưng rồi Reichenau cũng khăng khăng đòi rút về sông Mius. Hitler đã phải đích thân đến xem xét và kinh ngạc nhận thấy ngay cả Sepp Dietrich, chỉ huy Sư đoàn SS "Quốc trưởng Adolf Hitler", cũng có cùng suy nghĩ đó.
Tập đoàn quân 6 của Reichenau là đơn vị đã chiếm thủ đô Kiev của Ukraina. Cuối tháng 9 năm 1941, quân của hắn đã hỗ trợ việc chuyển 33.771 người Do Thái tới hẻm núi Babi Yar bên ngoài thành phố, tại đó họ bị đơn vị SS Sonderkommando 4a tàn sát 1 cách có hệ thống. Tập đoàn quân 6 cũng đóng giữ Kharkov, và Tập đoàn quân 38, đơn vị mà Grossman được cử theo dõi vào tháng 1/1942, đã phải đối mặt với nó.
Sư trưởng Lazko ở cùng vợ là Sofya Efimovna (*). Đêm trong izba rất ấm. Bukhovsky và tôi bước vào nhà sau khi trải qua 1 đêm dài chịu rét trên đường.
Cả 2 vợ chồng đều cực kỳ mến khách. Có cả 1 dãy đồ ăn tự làm: bánh nhân táo, bánh ngọt, dưa muối. Trong khi chúng tôi rửa sạch tuyết bám trên người, Lazko đã khoác cho chúng tôi những tấm khăn tắm dày màu trắng thêu kiểu Ukraina. Polyak là tham mưu trưởng sư đoàn, trước chiến tranh là quan chức cao cấp Bộ Ngoại giao, anh ta là 1 người thô lỗ và khinh khỉnh.
Grossman đi xem công tác chuẩn bị tấn công vào làng Zaliman mà địch đang chiếm giữ, ngôi làng nằm cách Statovo khoảng 20km về phía nam. 1 báo cáo kết quả trinh sát ban đầu cho biết bọn Đức đã buộc ngỗng sống vào cọc đóng quanh khu vực như là 1 biện pháp cảnh báo, chúng sẽ quang quác tướng lên khi có tiếng động.
Đêm, bão tuyết mù mịt, xe pháo âm thầm di chuyển. Bất đồ 1 giọng nói khàn khàn cất lên ở chỗ ngã 3 đường: "Này, đường nào là đường dẫn tới Berlin đấy?" Những tiếng cười vang lên khắp nơi.
Chúng tôi có thể quan sát cuộc phản công của bọn Đức từ trên 1 quả đồi nhỏ. Chúng chạy vài bước rồi nằm xuống. 1 bóng người nhỏ thó chạy phía sau, vừa chạy vừa vẫy tay, đó là tên sĩ quan. Bọn Đức tiến thêm vài bước nữa rồi bỗng chạy ngược trở lại, tên sĩ quan lại xuất hiện. 1 lần nữa, bọn Đức lại tiến lên thêm vài bước rồi lại bỏ chạy về phía sau, lần này còn nhanh hơn. Cuộc phản công vậy là đã thất bại.
Giấc mơ đã trở thành sự thật. Ngay khi bọn Đức tập hợp lại: Bang! 1 phát đại bác ngay chóc. Đó là tác phẩm của Morozov, pháo thủ phụ trách chỉnh súng (gun - layer). Đúng lúc bọn Đức tụ lại 1 chỗ và mọi người bắt đầu nghĩ rằng thật tuyệt nếu ai đó nã pháo vào đầu chúng lúc này thì: Bang! 1 phát đại bác! Chúng tôi thậm chí nhảy dựng lên vì sửng sốt.
Hồng quân rất thích lăng xê bất kỳ người lính nào chứng tỏ được khả năng đặc biệt của vũ khí mà anh ta sử dụng, đó có thể là 1 lính bắn tỉa, 1 tay ném lựu đạn vô địch hoặc 1 pháo thủ như Morozov. Họ được tôn vinh giống như những công nhân xuất sắc và thành tích của họ thường được cường điệu quá mức trong các bản báo cáo.
Ngày thứ 2 trận đánh ở Zaliman. Thời tiết rất lạnh, khói bụi mù mịt. Tiếng pháo bắn như quất vào tai. Trung đoàn của Trung tá Elchaninov đang chiến đấu vì Zaliman. Họ kéo pháo thẳng vào làng và giấu chúng sau những ngôi nhà. Khi phát hiện ra 1 ổ súng máy, họ lăn pháo ra, bắn thẳng vào chúng rồi lại kéo vào sau nhà.
Vấn đề cho pháo binh là: trận đánh diễn ra ngay trong làng. Quân 2 bên trộn trấu với nhau. Nhà này là của ta, nhà khác lại là của địch.
Nói chuyện với 1 phụ nữ: "Có 40 tên Đức đang đi - tôi thậm chí nhắm tịt cả mắt, ôi, lạy Chúa - chúng tiến thẳng vào làng, và khi tôi mở mắt ra, 1 số trong chúng đang nằm lăn trên đất, số khác bỏ chạy." (Đó cũng là tác phẩm của pháo thủ Morozov.)
Zaliman đã được chiếm lại như thế nào? Quân ta xông bừa vào làng đúng lúc bọn Đức đang tái tập hợp lại. 1 số đơn vị lạc đường mà chẳng có đơn vị nào khác thay chỗ họ. Thật may là ta chỉ mất có 3 người, bị thương. Nếu quân ta chọn cách khác thì có thể đã thương vong hàng nghìn. Bọn Đức có hàng rào dây thép gai, boongke làm bằng gỗ súc, lô cốt bê tông, hầm hào đầy đủ. Thậm chí có cả những hoả điểm đặt trong trong các boongke làm giống như nhà dân. Đại đội trinh sát đã lập báo cáo chi tiết về các lô cốt. Khi quân ta chiếm xong Zaliman thì thấy các báo cáo này hoàn toàn chính xác, cứ như thể chính tay họ đã xây những lô cốt đó.
Grossman đã tình cờ phát hiện ra "những hoả điểm đặt trong trong các boongke làm giống như nhà dân" vì lính Hồng quân thường tỏ ra hết sức ngạc nhiên trước việc lính Đức thường cố làm các vị trí phòng thủ giống như nhà ở. Điều đó có vẻ phù hợp với những người ở yên 1 chỗ hay thường dân chứ ko phải 1 quân đội tin vào các giá trị thượng võ và chiến thuật Blitzkrieg. Grossman tới gặp chỉ huy và tham mưu trưởng trung đoàn đã tiến hành cuộc tấn công.
Sở chỉ huy trung đoàn là 1 izba đã bị cướp phá trơ trụi, bọn Đức đã lấy khỏi đây mọi thứ, chỉ còn lại mấy cái ghế, giường, ghế đẩu, chổi quét nhà. Đại tá Pesochin là người to béo, trông rất trí thức, nhưng mọi người đều nói ông ta có thể đấm giữa mặt thuộc cấp, ông ta cũng đã từng đánh tổng biên tập tờ báo của sư đoàn.
Chính uỷ sư đoàn Snitser cũng to béo. Ông làm mọi người vui vẻ suốt và luôn ôm người khác rất chặt hay cài lại khuy cổ cho họ. Những câu chuyện cười tuôn ra liên tục. Pháo hạng nặng của bọn Đức đang bắn. "Sao các đồng chí ko tiêu diệt chúng?"
"Thật khó để tóm được chúng," vị chính uỷ vui tính trả lời ngay.
"Nhưng cũng còn dễ hơn là tóm được 1 phụ nữ."
(*)Thiếu tướng Grigorii Semenovich Lazko (1903 - ?)
Grossman ghi chép lại nhiều lời trao đổi bông đùa kiểu lính tráng.
"Anh đang ngày càng béo lên đấy, Thiếu uý Kostyukov."
"Tôi đang thi đua với chỉ huy của tôi, đồng chí Sư trưởng."
"Tôi chắc chắn anh sẽ thắng trong cuộc thi đua đó."
"Ko. Trọng lượng của tôi đã ổn định từ năm 1936."
"Mọi người ở trung đoàn anh đều béo."
"Thật quá vinh dự cho bọn Đức nếu chúng ta bị giảm cân vì chúng."
Ăn tối tại sở chỉ huy trung đoàn. "Anh nuôi, cậu đã mất bao lâu để làm ra cái mằn thắn bé tí thế này?"
"Tớ đang bắt đầu làm thì máy bay Đức bổ nhào xuống đầu chúng ta. Lũ rắt rết đó ko để tôi hoàn thành chỗ pelmeni này."
1 đại uý chạy vào khi chúng tôi đang ăn tối. "Tôi xin báo cáo, hơn 300 tay tiểu liên địch đã được phát hiện."
Snitser giơ cao ly vodka: "Ha - ha - ha! Chia số đó cho 10 đi."
Nếu Pesochin có thể đấm các chính uỷ thì chính uỷ sư đoàn Serafim Snitser cũng có thể đấm các chính trị viên dưới quyền. Mỗi người trong số họ lại trở thành 1 mắt xích trong chuỗi chỉ huy bằng phương pháp đấm đá. Cả 2 người đều to béo và có những quả đấm to, nung núc thịt. Những báo cáo chống lại cả 2 người được gửi cho Đảng uỷ Quân đội nhưng cũng ko ngăn được họ. Họ đã hứa hẹn nhưng ko thể kiềm chế được, cứ như bị nghiện. Họ đánh các thuộc cấp của mình bất kỳ lúc nào. Snitser đã đấm 1 lính tăng hôm qua trong 1 cuộc tranh luận về chiến lợi phẩm.
Grossman mặc dù vỡ mộng trước những huyền thoại Hồng quân kiểu đó nhưng vẫn hầu như ko thoát được sự mê tín đối với họ, ông vẫn lạc quan vào tình hình mới đang tiến triển thuận lợi.
Tinh thần của quân ta đã lên cao. Đó là sự thật.
Ông đánh giá sự thay đổi này qua các biện pháp cứng rắn mới được áp dụng trong quân đội Đức (mặc dù chúng ko tàn nhẫn bằng các biện pháp do đặc vụ NKVD đi kèm đội hình quân đội Soviet thực hiện).
Diễn văn của Hitler đọc trước binh sĩ: "Ko lùi 1 bước khỏi những vùng đất đã chiếm được." Mệnh lệnh này đã được đưa ra để buộc các binh sĩ ký vào: "1 bản án tử hình đã được đưa cho chúng tôi, và chúng tôi đã ký vào nó," 1 tù binh Đức nói.
[i]Grossman chắc chắn đã được Trung tá Elchaninov cho phép xem báo cáo của trung đoàn trong những tháng trước đó. Cũng như các ví dụ về chủ nghĩa anh hùng Soviet, Grossman viết cả về các "sự kiện bất thường", đó là cách nói trại đi về những hành động hèn nhát, đào ngũ, phản bội, các hoạt động chống chính quyền Soviet và tất cả các loại tội phạm có thể nhận án tử hình khác. Grossman hoàn toàn bị mê hoặc bởi ngôn ngữ nhà binh và sự phức tạp đến kỳ quái của các cơ quan theo dõi. Các ghi chép của ông vì vậy trở nên quá nguy hiểm, ông ghi lại cả các sự việc về đào ngũ hay bất tuân lệnh. Nếu bất kỳ cuốn sổ ghi chép nào của ông bị Cơ quan "đặc vụ" trực thuộc NKVD - cơ quan phản gián quân đội được tái tổ chức thành lực lượng SMERSh vào mùa xuân năm 1943 - phát hiện ra, ông sẽ gặp phải rắc rối lớn.
8/10/1941. Kravtsov của Đại đội Cối 3 đã liên tục tìm cách dừng lại nghỉ trên đường hành quân mặc dù đã bị chỉ huy cấm, hành động này đã đẩy đại đội của anh ta vào tình thế nguy hiểm.
13/10. Lính Hồng quân Matrosov đã tự để lộ mình khi thi hành nhiệm vụ trinh sát bằng ngựa. Anh ta đã bị giết. 1 người trong nhóm trinh sát đầu hàng địch và chịu đứng dưới tấm biểu ngữ "Ngày tàn của Nhà nước Soviet".
19/10. 1 lính Hồng quân thuộc Đại đội 8 bị bắn vì đã giúp sức cho 1 kẻ đào ngũ chạy sang phía địch(*)
24/10. Chỉ huy phân đội Marchenko ko tin vào thắng lợi hiển nhiên của Hồng quân. Anh ta đã nói: "Hitler chắc chắn sẽ đẩy chúng ta trở lại Siberia."
15/11. 1 xạ thủ súng máy tuyên bố: "Thông cáo của đồng chí Stalin đã tiếp thêm sức mạnh cho chúng ta." Lính Hồng quân Oska cũng tuyên bố: "Tôi xin nói với đồng chí Stalin rằng tôi sẽ chiến đấu với quân thù cho đến khi nào tim tôi còn đập."
(*)Bất cứ người lính nào ko tố cáo hoặc bắn đồng đội định đào ngũ đều bị coi là đồng loã.
Tại các buổi mít tinh do các chính uỷ hay "politruk" điều hành, các binh sĩ kể lại các hành động anh hùng và được động viên để đưa ra các khẩu hiệu và tuyên bố phù hợp với từng người.
Chính uỷ Glyanko xông vào làng Kupchinovka, hô lớn "Ura!"
Người đánh xe ngựa Klochko bị bọn Đức bắt. Chúng đẩy ông tới 1 ngôi nhà nơi quân Soviet đang đóng. Khi bước tới ngưỡng cửa, Klochko hét lên: "Đồng chí hạ sĩ! Bọn Đức!"
"Tôi yêu cầu xử tử 2 tên Đức đã chính tay giết 1 chiến sĩ của Đại đội 9 Bộ binh, thưa đồng chí Gorelov."
Lính Hồng quân Pilyugin nói: "Mùa Đông Tướng quân đã vui lòng giúp chúng ta. Bọn Đức đang hấp hối."
Lính Hồng quân Ryaboshtan tuyên bố: "Tôi sẽ đào 1 con hào ngay bây giờ và ko 1 hoả lực nào của địch có thể đẩy tôi rút lui khỏi đó."
Lính Hồng quân Kozyrev thuộc Đại đội 9 nói: "Thật khó để rời bỏ mảnh đất đã gắn bó với mình. Trừ phi là để tiến lên."
Lính Hồng quân Zhurba nói: "Chết còn hơn là bị bọn phát xít giam cầm."
Mặt khác, 1 số binh sĩ lại tỏ ra ngây thơ đến mức nguy hiểm khi buông ra những lời than phiền. Họ có thể bị chuyển cho Đặc vụ như những kẻ chủ bại hoặc kẻ kích động theo địch.
Lính Hồng quan Manyuk phát biểu: "Chúng tôi ko được nghỉ ngơi chút nào dù đã chiến đấu suốt từ ngày này qua ngày khác."
Lính Hồng quân Burak từ chối nhận 1 khẩu tiểu liên: anh ta nói mắt anh ta kém. Đại đội trưởng Kovalenko nguyền rủa anh ta bằng những lời tục tĩu.
Grossman ghi chép nhiều ví dụ về việc lính tráng và thậm chí các sĩ quan bày tỏ niềm tin tôn giáo của họ. Mặc dù vậy cũng ko rõ điều binh lính nói rằng Stalin đã thừa nhận Nhà thờ Chính thống giáo trong những giờ khắc đất nước lâm nguy có đúng ko.
Lính Hồng quân Golyaperov tuyên bố: "Tôi sẽ chỉ tuyên thệ nếu có 1 cây thánh giá."
Đặc vụ bắt Manzhulya, 1 binh sĩ đã đào ngũ nhưng rồi tự nguyện quay lại.
Mặc dù quay lại 1 cách tự nguyện, Manzhulya vẫn có thể bị coi là phần tử chậm tiến, đỡ hơn là 1 kẻ đào ngũ, và có thể phải đối mặt với đội xử bắn hay bị đưa vào 1 shtrafbat, tiểu đoàn trừng giới, nơi hầu như chắc chết vì đơn vị này bị buộc phải nhận những nhiệm vụ nguy hiểm nhất, trong 1 số trường hợp bao gồm cả việc tấn công xuyên qua các bãi mìn và đi đầu các mũi tấn công.(*)
"Bản lĩnh Ctrị của binh sĩ là tốt. Kẻ đào ngũ Toropov đã bị bắn trước mặt đại đội của hắn.
Bác sĩ Dolenko. Chồng cô ta đã trốn theo du kích nhưng cô ta lại theo bọn Đức.
Sự tương phản khắc nghiệt giữa 2 hành động anh hùng và hèn hạ này đặt ra nhiều câu hỏi. Bác sĩ Dolenko, 1 người Ukraina căn cứ theo tên của cô, có lẽ chỉ muốn đoàn tụ với gia đình đang ở sau chiến tuyến Đức, tuy nhiên theo góc nhìn Soviet đó là hành động phản quốc.
Cũng như trong mọi quân đội khác, việc nhận thư nhà là nguồn động viên tinh thần quan trọng.
Dư luận rộng rãi trong binh lính cho rằng các trạm thư chiến trường ko thực hiện tốt trách nhiệm của mình.
Trong Hồng quân, hơn bất kỳ 1 quân đội nào khác, tệ uống rượu gây nên những mối đe dọa lớn nhất cho kỷ luật, nó khiến người ta mất khả năng giữ mồm giữ miệng 1 cách nguy hiểm.
Lính Hồng quân Kazakov nói với Trung đội trưởng: "Súng của tao đã nạp đạn từ lâu để chờ đến lúc bắn mày."
Lính Hồng quân Evsteev từ chối đến chốt gác với lý do anh ta đang bị ướt. Ngày 20/10 anh ta rời chốt ko phép, bỏ lại các thành viên khác của tổ súng máy. Anh ta tới chỗ Đại đội 7 và nói với các binh sĩ tại đó: "Các chỉ huy của tôi chửi tôi, hút máu tôi đến giọt cuối cùng, và nhồi thức ăn đầy bụng." Khi phải nói chuyện với chính trị viên, anh ta bắt đầu cãi lại, tuyên bố rằng: "Rồi sẽ sớm đến lúc chúng tao xiên mày trên lưỡi lê." Chính trị viên bắn anh ta bằng súng ngắn.
(*)Theo tài liệu của quân đội Nga, đã có 422.700 binh sĩ trong các đơn vị trừng giới chết trong suốt cuộc chiến.
Suốt cuộc chiến, nỗi ám ảnh chính của nhiều binh sĩ Hồng quân là làm thế nào để kiếm được rượu hoặc bất kỳ thứ gì giông giống rượu.
Trung đội phó Anokhin và hạ sĩ Matyukhin uống những thứ đựng trong chai thuốc chống chất độc Yperite. Trung đội phó chết ngay, hạ sĩ chết trên đường đến bệnh viện.
Grossman ghi lại các ví dụ về ngôn ngữ trong các báo cáo quân sự chính thức.
Podus, chỉ huy trạm cấp phát thuốc, thực hiện hành vi tham ô cồn của trạm thuốc, pha loãng số cồn còn lại bằng nước lã.
Rượu cũng là nguyên nhân của phần lớn các vụ vi phạm về dâm ô và yêu đương, có lẽ 1 phần vì nó làm giải toả tâm hồn khỏi những đè nén nhu cầu tình dục trong thời đại Stalinist, khi 1 lời gợi ý mang tính quấy rối cũng bị xem là "chống Đảng".
Trung uý Boginava rời bỏ trung đội của anh ta trong đêm để tới chỗ 1 cô gái tên là Marusya, cô này cự tuyệt ko làm bất kỳ điều gì với anh ta. Boginava đòi cô phải cưới anh ta và doạ bắn cô.
Cũng có nhiều lúc các quan điểm cao thượng, chân thật và có văn hoá được bộc lộ, dù rằng điều đó thường được các chính trị viên định hướng thành lòng căm thù giặc và tình yêu đất nước Liên Xô.
1 buổi hoà tấu được thực hiện tại Đại đội Súng máy 1 ... lính Hồng quân tổ chức các buổi biểu diễn nhạc kịch trong các tiểu đoàn của họ. Sân khấu của vở kịch "Ở trang trại Fyodorovka" đang được dựng ... 1 buổi thuyết trình về triết học cũng được tổ chức cho các sĩ quan.
1 đội văn công Hồng quân ... "Buổi hoà nhạc của đội văn công này là 1 phát đạn chính xác nhằm vào bọn phát xít." Đội văn công này đã hoạt động từ 2 tháng trước, họ học hát cùng với các binh sĩ những bài hát kiểu như "Ôi, có 1 thằng cha đang gào lên bên đường". Kalisty, 1 người trước làm việc tại toà án, hát: "Ôi, Dnepr, Dnepr, sông cứ trôi xa, nước trong như nước mắt." Khi bài hát cất lên, ko chỉ có thính giả khóc mà người hát cũng khóc. Các binh sĩ thành viên đội văn công - bộ binh, pháo binh, lái tăng - ăn mặc tồi tàn, 1 trong số họ vừa trải qua 1 lần suýt chết cóng. Họ tới đây dưới làn đạn và thường biểu diễn ngay trước 1 trận đánh mới. Tại làng Dubrova, người xem phải chạy thật nhanh, từng người 1, đến chỗ biểu diễn văn nghệ trong rừng. 1 bà già tên là Vasilisa Nechivoloda tới và khiêu vũ với Kotlyarov trong tiếng đàn accordeon. Bà đã 75 tuổi. Sau buổi biểu diễn bà nói: "Cám ơn các con trai, hãy sống thật nhiều, thật nhiều năm nữa để đánh bọn phát xít nhé."
Các dân làng ko phải lúc nào cũng thân thiện.
Bà chủ căn nhà bị Đại đội 6 trưng dụng làm nơi đóng quân tỏ ra thù địch với những người lính - bà ta đổ tro vào trà của họ, nấu bếp khiến trong nhà ngập ngụa khói.
Chỉ huy trung đoàn pháo là Thiếu tá Ivanov, khi thời tiết bắt đầu trở lạnh, pháo được bôi mỡ và tra dầu vào các bộ phận. 1 tốp săn tăng được thành lập và luyện tập. Tiểu đoàn của Chính uỷ Malyshev có 1 dàn đồng ca tuyệt vời. Họ tự làm 1 cái nhà tắm hơi (banya).
Báo cáo Ctrị mới nhất: "Trong trận đánh tại làng Zaliman, 1 lính Hồng quân bị thương đã lọt vào vườn sau nhà công dân Yakimenko. Galya Yakimenko đã chăm sóc y tế cho anh ta. 1 tên Đức phát xít xông vào vườn bắn chết cả người lính và Galya, hắn còn định bắn vào cậu con trai 14 tuổi nhà Yakimenko. Hàng xóm là cụ Semyon Belyavtsev đã vớ lấy 1 cây gậy phang vào đầu tên phát xít. Binh sĩ Petrov kịp lao tới bắn chết hắn."
Trong hầu khắp các đơn vị Soviet, thương vong do tai nạn súng ống ở mức rất cao.
Thiếu uý Evdokimov (sinh năm 1922, trình độ văn hoá lớp 10, Đoàn viên Komsomol) làm thiếu uý Zorin bị thương vào bụng. Đó là 1 tai nạn, thiếu uý Evdokimov sau đó định tự sát nhưng ko thành công.
Phía Soviet thường thổi phồng thương vong của đối phương đến mức quá quắt.
"Đồng chí Myshkovsky đã chiến đấu như 1 anh hùng và tiêu diệt 1 trung đội phát xít bằng súng máy. Anh đã hy sinh sau khi bị thương nhiều chỗ."
"Naum Moiseevich Malomed đã chiến đấu dũng cảm và cùng trung đội của mình chiếm được nhiều vũ khí địch, Malomed đã hy sinh. Pháo thủ súng cối Sivokon đã đập tan quân thù ko khoan nhượng. Đồng chí Trung đoàn trưởng Avakov đã được chôn cất vào hồi 15h, ông đã hy sinh như 1 vị anh hùng, toàn thể đơn vị nói lời vĩnh biệt vị chỉ huy, có cả cư dân địa phương tham dự lễ tang."
"Chính uỷ Usachev ném lựu đạn vào bọn Đức và khởi xướng 1 cuộc xung phong bằng lưỡi lê. Usachev đã hy sinh như 1 vị anh hùng."
Khi nghe báo cáo từ mặt trận, Sư trưởng Pesochin nói với giọng du dương: "Ôi, lạy Chúa tôi."
Việc quay lại Zaliman và nhiều làng khác đã làm Grossman suy nghĩ nhiều hơn về cuộc sống dưới ách chiếm đóng của bọn Đức. Những tin đồn từ phía bên kia chiến tuyến gây lo lắng cho mọi người.
Các cô gái sống trong các làng bị chiếm đóng phải quấn giẻ rách lên người và bôi tro lên mặt.
Đó là cách để bọn lính Đức ko chú ý tới họ.
Phụ nữ Đức cũng phải dùng biện pháp tương tự vào năm 1945 để hy vọng thoát khỏi bị Hồng quân hiếp. Grossman cũng như nhiều người khác đôi khi đã tác động tạo nên ấn tượng xấu về sự chiếm đóng của đối phương.
6 cô gái xinh đẹp của làng Zaliman đã bỏ đi theo bọn Đức.
Đó rất có thể chỉ là 1 lời đồn đại độc ác. Hầu hết các cô gái hấp dẫn đều bị bắt phục vụ tại các nhà chứa của Wehrmacht (quân đội Đức quốc xã), 1 số phận còn tệ hơn là bị hãm hiếp vì như vậy là họ bị hiếp thường xuyên. Các cô gái trẻ phải giả bộ thích thú việc đó hoặc đối mặt với những hình phạt hà khắc.
Đối với phần lớn người dân đã bắt nhịp được với tình trạng chiến tranh, sống sót là tất cả. Tuy nhiên đôi khi 1 chú nhóc nông dân tỏ ra tỏ ra láu cá để có được những thứ tốt hơn.
1 chú bé phát hiện dấu vết của bọn Đức, đêm xuống, cậu ta báo lại mọi thứ cho trung đoàn trưởng đang ở trong 1 izba. "Cho tôi 1 ít vodka, tôi lạnh," cậu ta nói bằng giọng khàn khàn. Trung đoàn trưởng đang ăn tối, ông bắt đầu nói lớn: "Vanya, Vanya, có ít thịt gà này." Cậu bé được cho 1 ít vodka và thịt gà, sau đó mẹ cậu ta thình lình xuất hiện và quật cho cậu 1 trận ra trò. Hoá ra cậu ta đã bịa ra mọi chuyện.
Grossman góp nhặt những chi tiết vụn vặt từ các chính trị viên để hoàn thành bài báo. Nhiều khi là từ các cuộc thẩm vấn tù binh hoặc các thư từ, tài liệu thu được, nhưng ko phải tất cả đều chính xác.
1 bức thư của lính Đức: "Đừng lo buồn. Vì càng sớm xuống lỗ ngày nào tôi càng đỡ phải chịu khổ ngày đó."
Câu cuối như thể đã trở nên thông thường trong các binh lính Đức chán ngán chiến tranh, những từ ngữ này xuất hiện nhiều đến mức đáng ngờ trong các thư từ mà nhà cầm quyền Soviet tuyên bố thu được. Tuy nhiên chúng ko bao giờ xuất hiện trong các bộ sưu tập thư chiến trường thu được tại Đức. Có lẽ các chính trị viên nghe được ở đâu đó những điều này rồi tuyên bố họ tìm thấy trong những bức thư. Grossman sau đó trích dẫn lại 1 cách thường xuyên như 1 ví dụ lặp đi lặp lại, tuy nhiên điều này còn phải nghiên cứu cẩn thận.
"Chúng tôi thường nghĩ: "Rồi, giờ thì nước Nga chắc chắn sẽ đầu hàng," nhưng tất nhiên bọn dốt nát đó quá ngu để hiểu điều đó."
Cũng trong 1 bức thư: "Tình hình lương thảo ko đến nỗi tệ. Hôm qua chúng tôi thịt 1 con lợn nặng 150kg cho 7 người ăn. Chúng tôi đã bỏ đi 30kg mỡ."
1 bức thư khác: "Chúng tôi hấp bánh táo. Lúc đầu chúng tôi cho quá nhiều bột, sau đó là quá nhiều khoai tây. Tổng cộng chúng tôi làm được 47 cái bánh táo, đủ cho 3 người chúng tôi. Giờ tôi đun cải bắp và táo. Tôi ko biết mùi vị của chúng sẽ ra sao nhưng dù sao chúng tôi cũng ko có phiếu thực phẩm. Chúng tôi lấy mọi thứ từ dân địa phương. Ko có thời gian để viết thư, chúng tôi nấu nướng suốt ngày. Cuộc sống quân đội thật tốt đẹp. 4 người chúng tôi thịt 1 con lợn sữa để ăn với nhau. Tôi tìm thấy nhiều mật ong ở đây, đó chính xác là thứ tôi cần."
1 bức thư của 1 cô gái Đức: "Em đang dần phát điên, về đi, tình yêu của em. Em mong anh sẽ sống sót vì chiến tranh chẳng là gì cả với em nếu anh ko còn. Tạm biệt, kho báu của em, tạm biệt. Mizzi."
Hitler tuyên bố với binh lính của hắn (trong 1 bản báo cáo lấy được từ 1 tên Đức bị bắt): "Các binh sĩ của tôi! Tôi yêu cầu các bạn ko lùi 1 bước khỏi những vùng đất các bạn đã chinh phục được bằng máu của chính các bạn. Hãy đốt cháy các làng mạc Nga để soi đường cho các đơn vị dự bị của tôi đang tiến tới và truyền niềm vui cho họ. Các binh sĩ của tôi, tôi đã làm mọi thứ vì các bạn, giờ các bạn hãy làm những gì có thể cho tôi."
CHÍN
CUỘC CHIẾN TRANH TRÊN KHÔNG Ở KHU VỰC PHÍA NAM
Trong ngày đầu năm mới 1942, Grossman lại viết thư cho vợ trong tâm trạng phởn phơ vì quân Đức đang rút lui trên khắp các mặt trận.
Lyusenka yêu quý nhất của anh, chúng ta hãy chúc mừng năm mới: em ở Chistopol, anh ở mặt trận ... Tương lai đã trở nên rõ ràng với chúng ta. Cảm giác tin tưởng và mạnh mẽ lan truyền trong toàn thể quân đội, và mỗi ngày trôi qua lại đem chiến thắng đến gần hơn ...
10 ngày sau, ông lại viết 1 bức thư khác.
Các bài viết của anh hiện đã được đăng thường xuyên hơn, và Tổng biên tập đã trở nên tốt bụng hơn với anh. Anh mới nghe về cái chết của Gaidar (*) hôm qua. Anh ấy đã hi sinh trong 1 trận đánh ... Lyusenka, em có nhớ Gaidar? Bạn bè chúng ta đang ở đâu? Anh vẫn ko thể tin vào sự thật là Vasya Bobryshev đã chết. Anh vừa đọc bức thư cuối cùng của anh ấy mới đây xong, và tim anh đau nhói. Anh thường nhớ tới Roskin với tâm trạng đau khổ. Anh nghĩ về Mẹ. Anh vẫn ko tin là Mẹ đã mất, anh ko thể chấp nhận điều đó. Nỗi đau về Mẹ vẫn sẽ túm chặt lấy anh sau này ...
Đến cuối tháng 1, Grossman đến thăm 1 sân bay ở Svatovo, đó ko phải là 1 chuyến đi dễ dàng trong tiết trời mùa đông lúc đó.
Có bão tuyết khi chúng tôi rời Zaliman đi Svatovo. Con đường biến mất dưới lớp tuyết. Chúng tôi sớm bị kẹt đến mức vô vọng. May mắn thay, 1 chiếc tank đi qua đã nhận thấy chúng tôi. Chúng tôi trèo lên ngồi trên xe tăng và nó đưa chúng tôi quay về lại Zaliman, kéo theo cả chiếc ô tô của chúng tôi.
Ông kể lại chuyến đi này trong bức thư sau đó gửi cho cha.
Ở đây trời vẫn lạnh buốt. Con vừa bị 1 trận bão tuyết giữa thảo nguyên và 1 chiếc xe tăng đã cho con đi nhờ về làng nếu ko con có thể chết cóng ngoài đó. Có rất nhiều việc ở đây và công việc thật hấp dẫn. Tinh thần của con đang rất cao. Chỉ là con hơi lo lắng cho tất cả những người con yêu quý, tất cả đã phải sơ tán mỗi người 1 nơi. Con thường mơ về Mẹ. Điều gì đã xảy ra với Mẹ? Mẹ còn sống ko?
Trong suốt cuộc chiến, Grossman luôn bị hấp dẫn bởi những tay chuyên gia. Trong giai đoạn đầu, các phi công chiến đấu là những người thu hút ông nhất; sau đó khi ở Stalingrad, các tay bắn tỉa gây cảm hứng với ông; và trong 6 tháng cuối cùng của cuộc chiến là những lính xe tăng.
Đầu tháng 2, ông tới thăm trung đoàn ko quân chiến đấu Hồng quân yểm trợ cho Phương diện quân Tây Nam đóng tại sân bay Svatovo, phía bắc Donets. Trung đoàn được trang bị các máy bay chiến đấu Yak. Trong thời kỳ đầu cuộc chiến, ko quân Soviet mặc dù có số lượng lớn nhưng ko thể đọ nổi kỹ thuật hơn hẳn của ko quân Đức (Lufwaffe) đối thủ, vì vậy 1 số phi công đã phải chọn cách đâm thẳng vào máy bay Đức. Chỉ 1 số ít thoát được sau những vụ như vậy.
Salomatin: "Đâm thẳng - đó là tính cách Nga, là cách giáo dục Soviet."
Mikhail Stepanovich Sedov, sinh năm 1917: "Đâm thẳng ko phải hành động anh hùng. Anh hùng nghĩa là bắn hạ chúng càng nhiều càng tốt."
Skotnoi: "Cái kiểu anh hùng gì mà lại mang 1 chiếc máy bay đầy đạn nhưng ko tìm cách bắn (máy bay địch) mà đến nỗi phải đâm chúng?" Skotnoi ko nói nhiều, anh đang rất buồn. "Tôi sẽ rất bối rối khi tới các câu lạc bộ. Tôi quá nhát để nói chuyện với các cô gái."
(*)Arkady Gaidar, nhà văn nổi tiếng và được yêu thích chuyên viết cho trẻ em. Từng là Trung đoàn trưởng vào năm 18 tuổi trong cuộc Nội chiến Nga. Năm 1941, sau khi phát xít Đức xâm lược, ông ra chiến trường làm phóng viên chiến tranh.
1 số phi công mà Grossman phỏng vấn, đặc biệt là các chỉ huy đơn vị, bị các nguyên tắc của Đảng giới hạn chặt chẽ nên ko bao giờ đưa ra bất kỳ bằng chứng nào về các vụ tai nạn rơi máy bay hoặc hỏng động cơ, dù chỉ là để nêu lên vấn đề. Trong 1 số giai đoạn của cuộc chiến, ko quân Hồng quân mất số máy bay do tai nạn nhiều gần như do chiến đấu với địch.
Thiếu tá Ivan Sidorovich Fatyanov: "Người của tôi làm việc theo từng cặp. Họ thậm chí sẽ bỏ qua con mồi để bám sát đồng đội. Lòng tin vào người đi cùng là điều quan trọng nhất. Chúng tôi giúp đỡ những người khác khi họ gặp vấn đề. Truyền thống đó đã có từ trước và chúng tôi bao giờ cũng tuân theo. Chúng tôi tin tưởng vào những gì được trang bị cho chúng tôi. Chẳng bao giờ có chuyện động cơ hoặc bản thân chiếc máy bay làm ai đó bị rơi."
Với đề tài về bọn Đức: "Chúng yểm hộ những chiếc Junker tiến tới, tách ra và tấn công. Nhưng chúng ko thể chống cự khi tình hình thay đổi mau lẹ. Ko có nhiều tình đồng đội giữa chúng với nhau. Các cặp máy bay ta dễ dàng xé toang đội hình chúng. Chúng bỏ chạy hết tốc lực. Chúng có thể chạy tán loạn trước 1 đối thủ lanh lợi nhưng ko bao giờ bỏ qua 1 chiếc máy bay ta đã bị thương. Tôi ko dám nói tôi là người giàu kinh nghiệm." (Anh ta tỏ ra khiêm tốn.)
1 viên tướng ko quân đang nói chuyện trên điện thoại mặt trận về bom, việc cất cánh các máy bay ném bom, việc bắt đầu công kích, vân vân và vân vân. Bất thần ông nói: "1 đứa trẻ đang khóc ở đâu đó sát chiến tuyến bên kia, chắc là trong 1 izba."
Grossman xem ra đã bị hấp dẫn bởi những tiểu tiết trong các ghi chép của mình.
Aleksandr Vasilievich Martynov, sinh năm 1919: "Mọi người có thể nhận ra toàn bộ tính cách của 1 phi công theo cách anh ta di chuyển chiếc máy bay. Tôi có thể nhìn thấy đâu là tên địch mạnh mẽ và kiên trì. Bọn Đức cũng tìm những người khờ khạo, chúng sẽ hạ gục họ từ phía sau. Là 1 phi công, bạn sẽ nhận ra tính cách đồng đội của mình là như thế nào, và toàn bộ bản chất anh ta được thể hiện theo cách anh ta lái cỗ máy. Trong 1 trận ko chiến, rất khó phân biệt giữa các phi công với nhau ... Tôi phải bảo vệ đồng đội của mình hơn là bắn hạ bọn Đức khát máu ... Bạn nhìn thấy 1 tên Fritz (tiếng lóng chỉ quân Đức - Maseo), cách hắn lúc lắc đầu, và bạn cho chúng xơi vài viên đạn nóng bỏng! Cận chiến trên ko hơi khó khăn với bọn Fritz, đó là kiểu đánh nhau đến giọt máu cuối cùng. Quân địch ko thích đánh nhau trên cùng 1 mặt phẳng, ngang hoặc nghiêng, chúng thường cố đánh trên 1 trục thẳng đứng. Chúng làm mọi thứ 1 cách êm ru, tránh những cú nghiêng cánh gấp. Điều đó có nghĩa là chúng có thể thoát khỏi 1 mặt phẳng chỉ bằng 1 cú lượn. Chúng bắn mà ko ngắm kỹ.
"Hợp tác tốt giữa các cặp đôi đảm bảo cho thành công. Bạn bay theo người dẫn đầu và anh ta ra tín hiệu khi cần tách ra ... Tôi đã từng bị trúng đạn trên ko bởi pháo cao xạ, máy bay cháy và tôi bị thương. Khi máy bay cháy tôi chưa cảm thấy sợ, ko có thời gian để sợ. Đức tính tốt của 1 phi công giỏi là:
1) Biết rõ cỗ máy và các thiết bị kèm theo của bạn để có thể sử dụng được chúng.
2) Tin tưởng và yêu quý cỗ máy của bạn.
3) Dũng cảm, có cái đầu lạnh và trái tim nóng.
4) Có tình đồng đội tốt.
5) Thể hiện đức tính vì người khác trong chiến đấu, hết lòng vì Đất Mẹ, và căm thù giặc.
Cuộc đụng độ đầu tiên của tôi là với 1 chiếc Heinkel. Tôi công kích nó 12 lần, nó biến thành 1 cục khói đen. Lần đầu này tôi có hơi sợ, tôi trở về với nhiều vết đạn. Khi bị trúng đầy vết đạn, tôi bay như 1 con chim cút già nua."
Salomantin giải thích tại sao anh ta ko chờ muộn hơn để tham chiến 1 trận đánh khác: "Tôi muốn là phi công chính, đó là lý do tôi lại bắt đầu tham chiến. Chẳng vinh dự gì khi tôi là người bay sau. Tôi muốn hạ bọn Đức dù phải trả giá bằng mạng sống của mình."
Salomatin sau đó kể về Demidov, đồng đội của anh vừa hi sinh trong 1 trận ko chiến. Mọi người đã tưởng nhớ anh ta trong tiệc rượu ăn mừng việc được tặng thưởng huân chương. Phong tục của Hồng quân là bỏ chiếc huân chương mới được tặng thưởng vào cốc vodka, uống 1 hơi hết chỗ rượu đó để cuối cùng là ngậm được chiếc huân chương giữa 2 hàm răng.
"Demidov, người đồng đội vừa hi sinh, thường truyền sự can đảm của anh cho mọi người. Baranov đã khóc oà lên khi chúng tôi được nhận huân chương. Cốc đầu tiên là cho Stalin, cốc thứ 2 là cho người đồng chí đã hi sinh Demidov."
Đại uý Zapryagalov: "Ngày đầu tiên của trận chiến tại Chernovitsy, còi báo động reo vang ngay từ 4h sáng. Chúng tôi chạy vào sân bay. Tôi cất cánh khi bom đang nổ. Sau này tôi phải tiến hành các vụ cất cánh khác từ sân bay đã bị bom phá huỷ."
"Cái chính là chúng tôi tin tưởng. Chúng tôi chẳng nghi ngờ gì là sẽ được đồng đội giúp đỡ khi gặp vấn đề. Chúng tôi ko phải những người bắt đầu truyền thống đó nhưng chúng tôi sẽ tuân thủ tuyệt đối nó. Đức là 1 nước rất mạnh về kỹ thuật."
Boris Nikolayevich Eryomin, 29 tuổi: "Nguyên tắc quan trọng nhất là phải hợp tác với người cùng cặp và có tinh thần đồng đội. Chúng tôi hợp tác với nhau và biết rõ đặc điểm của người kia. Martynov, chỉ huy phó, bay cùng Korol và dạy anh ta. Cặp đôi thứ 2 gồm Balashov và Sedov. Tôi bay cùng Skotnoi.
"Ai cũng có thể nhìn thấy luồng đạn lửa bắn ra từ chiếc máy bay màu đen của địch. Chiếc Messerschmitt có thân dài, trông giống như 1 cây thương. Tôi quan sát, thấy cái mũi cánh quạt màu vàng của nó thì nghiêng cánh, nhưng hơi muộn. Tôi thấy hắn khai hoả vào tôi và ánh lửa xanh bùng lên, ngay khi đó Martynov lao vào hắn, và hắn rơi. Thật thú vị, tất nhiên, bạn sẽ thực sự say mê khi nhìn thấy cảnh đó.
"Chúng tôi phải bảo vệ đám "mòng biển", bên trong chúng đều là những người tốt." (*)
"Tôi cất cánh cùng Salomatin khi còi báo động kêu và hạ được 1 máy bay địch. Cảm giác thật sung sướng. Bạn chỉ toàn bay theo 1 phương pháp đó thôi: "Ah, sẽ tốt hơn nếu theo cách đó, sẽ tốt hơn nếu theo cách đó."
"Chỉ huy giải thích điều đó với tôi, và tôi hiểu điều anh ta muốn ở tôi. Chúng tôi đã thống nhất trước từ ở dưới đất - nếu anh lắc cánh - đó có nghĩa là chuẩn bị vào công kích đi."
Trung uý Salomatin (người bay yểm trợ cho Sedov, sinh năm 1921: "Chiếc máy bay dẫn đầu của địch tiến thẳng về phía tôi, nhưng tôi ko xoay máy bay ra hướng khác. Hắn sững lại rồi xoay đi. Đâm thẳng vào hắn lúc này có thể lợi được 1 chút, nhưng chẳng đáng, chỉ khi nào 1 chọi 1 thôi. 1 người có thể sợ nếu bị cả đám máy bay địch tấn công, nhưng khi quân ta có cả 1 phi đội, bạn sẽ quên tất cả mà chỉ thực sự bị kích động bởi ý nghĩ: "Chúng đang bay đi ném bom quân ta!"
Về đâm máy bay: "Sẽ là rất có lợi khi đổi 1 chiếc tiêm kích lấy 1 chiếc Junker nhưng tôi sẽ chẳng trao cho ai danh hiệu Anh hùng Liên Xô vì 1 hành động kiểu đó. Ai mà chẳng làm thế được. Tôi đã suy nghĩ rất nhiều về chuyện đâm máy bay, về chuyện xé tan máy bay địch bằng cánh quạt. Nó có thể gây ra nhiều thiệt hại.
"Tôi xông vào chúng và lao thẳng vào giữa đám máy bay Đức, gần như chạm cánh vào 1 chiếc trong số chúng. Tôi thoát qua hướng về phía mặt trời mà chúng ko hề bắn. Tôi lại suýt nữa húc phải 1 chiếc khác và bắn hạ hắn ở khoảng cách chỉ 25m. Sau đó tôi quay lại và bắt đầu nã đạn vào bất kỳ chiếc máy bay Đức nào.
"Chuyến bay thứ 2 - tên dẫn đầu chỉ cách tôi có 2m ngay dưới bụng và tôi bị luồng gió từ chiếc máy bay của hắn tạt vào. Tôi bổ nhào và thoát được khỏi 9 chiếc Messer. Tôi tăng tốc để hạ 1 chiếc Messer đang bám đuôi 1 trong những chiếc Yak của ta (Trung úy Skotnoi đang lái chiếc này), nhưng ko thể làm được điều đó ngay. Máy bay của Skotnoi chao đi, nhưng tôi đã kịp đưa 2 chiếc Messer ra đi. Skotnoi hạ cánh xuống đất. Tôi lượn 2 vòng để tìm vì rõ ràng địch ko giết được anh ta. Tôi thấy anh ta còn sống và giơ tay vẫy."
Skotnoi: "Chúng tôi lao vào trận đánh mặt đối mặt. Hắn bắn thủng bộ tản nhiệt máy bay của tôi nhưng tôi đã bắn cháy hắn. Tôi tới giúp Eryomin. 1 chiếc Messerschmitt bắn trúng bình xăng và ống dẫn nhiên liệu của tôi. Lửa bùng lên trong buồng lái, khói ngập ngụa. Tôi mất độ cao. Sedov bay quanh bảo vệ tôi. Tôi ko bị bỏng, chỉ có đôi ủng là bị cháy. Tôi nhảy ra, vẫy tay với Sedov (ý nói anh ta có thể đi). Chiếc máy bay của tôi cháy bùng lên."
(*) Mòng biển (chaechka): cách gọi âu yếm 1 loại máy bay, thực tế theo cuốn "Polikarpov I", trang 15, 1 chiếc máy bay chiến đấu loại nhỏ có cánh kiểu chim mòng biển ko bao giờ có cơ hội đối chọi đơn độc được với 1 chiếc Messerschmitt 109.
MƯỜI
Ở DONETS CÙNG SƯ ĐOÀN ĐEN
Grossman đi cùng Tập đoàn quân 37 đóng gần Serverrnyi Donets, cách Kharkov 40km về phía đông nam. Họ đối mặt với Tập đoàn quân 6 Đức, lực lượng do Tướng Friedrich Paulus chỉ huy, đây cũng là lực lượng mà Grossman sẽ chạm trán ở Stalingrad.
Tới thăm Sư trưởng, Đại tá Zinoviev, Anh hùng Liên Xô, sinh năm 1905 và là 1 nông dân. “Tôi là 1 muzhik,” ông nói về bản thân như vậy. Ông gia nhập Hồng quân năm 1927 và phục vụ trong lực lượng biên phòng đóng ở Trung Á, làm đại đội trưởng trong Chiến dịch Phần Lan, đã từng trải qua 57 ngày trong vòng vây quân Đức (kỳ công mà nhờ đó ông được nhận danh hiệu Anh hùng Liên Xô).
“Điều đáng sợ nhất,” Zinoviev nói với tôi, “là khi chúng đang bò tới. Bạn bắn chúng bằng súng máy, cối và đại bác, bạn nghiền nát chúng, nhưng chúng cứ bò tới. Và bây giờ tôi phải cố thuyết phục binh lính của mình: “Bò đi!” Dù đã từng học tại Học viện Quân sự Frunze nhưng ông vẫn khó nói năng được 1 cách trôi chảy. Ông tỏ ra rụt rè và hay vấp váp trong ngôn từ, ông xấu hổ vì điều đó như 1 người bình thường.
Sư đoàn gồm phần lớn là các thợ mỏ, tất cả đều đến từ Donbass. Bọn Đức gọi họ là “Sư đoàn Đen”. Các thợ mỏ ko muốn rút lui. “Chúng tôi sẽ ko để 1 tên Đức nào vượt qua Donets.” Họ gọi Sư trưởng của mình là “Chapaev của chúng ta”. (*)
Trong trận đánh đầu tiên Sư đoàn đã bị khoảng 100 xe tăng Đức tấn công. Các thợ mỏ đã chặn đứng cuộc tấn công đó. Khi bọn Đức chọc thủng 1 cánh Sư đoàn, Sư trưởng phi ngựa dọc chiến tuyến hô: “Tiến lên, những người thợ mỏ!”
“Thợ mỏ ko lùi!” Binh lính gầm lên đáp lại.
“Họ ngủ trong rừng khi nhiệt độ là âm 35 độ C. Họ ko sợ xe tăng. “Ở trong mỏ còn đáng sợ hơn,” họ nói vậy.”
Niềm tin của Sư trưởng là: “Điểm mấu chốt ở đây là chính những người lính Hồng quân. Họ ngủ trên tuyết và tự làm cho cuộc sống trở nên thoải mái. Ko dễ để 1 người thỏa mãn với cuộc sống của mình. Ai cũng muốn được sống, kể cả các vị anh hùng. Uy tín đến từ các cuộc nói chuyện hàng ngày. 1 người lính phải biết và hiểu rõ nhiệm vụ của mình. Cần phải nói chuyện với binh lính, hát và nhảy với họ. Uy tín ko phải dễ mà có, phải rất khó khăn mới đạt được. Tôi đã học được điều đó hồi còn ở lực lượng biên phòng. Tôi biết các binh sĩ tin tôi, tôi biết họ sẽ hoàn thành mọi mệnh lệnh của tôi dù phải trả giá bằng mạng sống. Khi cần phải chiếm 1 thị trấn hoặc chặn 1 con đường, tôi biết rằng họ sẽ làm.”
Giá buốt kinh khủng, mưa tuyết gào rú, ko khí băng giá đến mức mọi người phải cố kìm nén hơi thở. Lỗ mũi đặc nghẹt, răng gõ lập cập vì lạnh. Bọn Đức bị chết cóng nằm lăn lóc trên đường tiến của quân ta, xác của chúng hoàn toàn ko bị đụng tới. Quân ta ko giết chúng mà là cái lạnh. Trò đùa quái ác của tự nhiên đã sắp đặt chân, tay, đầu gối những tên Đức chết cóng, biến chúng thành những bức tượng kỳ quái. Có tên chết đứng với nắm đấm giơ lên, tên khác với các ngón tay xòe rộng. 1 số tên trông như đang chạy, đầu ngả lên vai. Chúng đi những đôi ủng rách rưới, khoác shinelishki (áo choàng) mỏng, chúng lót giấy trong áo nhưng điều đó cũng ko giúp chúng giữ ấm được. Đêm xuống, cánh đồng phủ tuyết chuyển thành màu xanh lơ dưới ánh trăng, thân xác đen sì của những tên Đức chết cóng vẫn ở ngưyên trên tuyết xanh như tượng những tên hề.
Nhìn lại lần nữa, những xác lính Đức vẫn đứng đó. 1 tên chỉ mặc mỗi áo lót và 1 cái áo len mỏng lót giấy.
Trong 1 ngôi làng vừa được giải phóng, xác của 5 lính Đức và 1 lính Hồng quân nằm trên quảng trường giữa làng. Quảng trường trống ko, chẳng có ai để hỏi điều gì đã xảy ra, nhưng cũng chẳng cần hỏi ai để dựng lại tấn kịch. 1 tên Đức bị giết bằng lưỡi lê, 1 tên khác bằng báng súng, tên thứ 3 cũng bằng lê, 2 tên còn lại bị bắn. Và người lính quân ta, người đã giết tất cả chúng, bị bắn từ phía sau.
Grossman thích làm việc với chỉ vài đồng sự hoặc 1 mình, nay phải tham gia vào 1 nhóm lớn các phóng viên chiến tranh.
Trong izba có hàng tá người, thật là lộn xộn, sở chỉ huy đang được thiết lập. 1 cô gái xinh đẹp khoác chiếc áo choàng quá rộng so với cô ta, đội 1 chiếc ushanka (mũ lông) to đến sụp cả xuống mắt, chân đi 1 đôi valenki (ủng dạ) khổng lồ. Nhưng có thể nhận ra nét ngọt ngào, mảnh dẻ của cô gái này dưới những thứ xấu xí toàn màu xám mà cô trùm lên người. Cô đứng đó với ánh mắt thất thần, chẳng biết ngồi vào đâu. Cô gái cầm 1 cái túi xách màu đỏ, thứ đã từng được thấy trong những ngày tốt đẹp, trông vô cùng buồn bã giữa khung cảnh xám xịt của môi trường quân đội xung quanh. 1 chú lính đùa nghịch vỗ vào lưng cô 1 cái rất mạnh, cô bỗng òa khóc. “Tha lỗi cho tôi, Lidochka,” chú lính nói. “Tôi là thợ mỏ nên hơi mạnh tay.”
Nhớ hồi còn hòa bình, chúng tôi lúc nào cũng phải đi những đôi dép cao su xấu tệ bọc ngoài giầy khi vào các lâu đài. Giờ khoảng 50 phóng viên ảnh và phóng viên viết ngủ trong 1 izba, và nó suốt ngày lộn xộn – “Valenki của ai đây? Xà cạp, găng, mũ của ai đây? (**) Mọi thứ trông y hệt như với những dân thường thời bình, điều này ko bao giờ xảy ra với cánh lính tráng.
Người chủ izba kể cho chúng tôi bọn Đức đã bỏ chạy khỏi làng khi bị quân ta pháo kích như thế nào. Chúng mang theo tư trang mà ko kịp đóng gói; chúng đã quá sợ, 1 số tên ngã xuống tuyết và khóc rống lên.
“1 tên Đức đã ở đây, hắn mang theo 1 con mèo từ Poltava (sở chỉ huy Tập đoàn quân 6 Đức). Con mèo rất thân thiết với hắn. Khi hắn bước vào nhà, con mèo chạy tới bên hắn và cọ vào ủng của hắn. Hắn cho con mèo ăn mỡ, chỉ toàn là mỡ. Và khi quân địch bỏ chạy, hắn mang cả con mèo theo, hắn quá yêu con mèo đó.”
“Bác sĩ sư đoàn đóng ở đây. Ông ta làm việc suốt đêm, như trâu như bò. Ông ta viết rất nhiều và rồi gào vào điện thoại như 1 con quạ: “Kamyshevakha! Kamyshevakha!” Rồi ông lại viết, chẳng cần ánh sáng. Ông ta đúng là làm như trâu, và ông cũng hay quát to khi ra lệnh: “Tại sao người Nga im lặng vậy?” Ông ta thích hỏi vậy khi tôi chẻ củi vào các buổi sáng, việc này đặc biệt giúp tôi tỉnh ngủ.”
1 phụ nữ kể với chúng tôi: "Nó là 1 con bò cái trẻ khoẻ, bọn Đức bắt nó đi vì chúng muốn ăn cái gì đó giàu chất béo."
Chỉ huy pháo binh ra lệnh: "Nhằm thẳng vào lũ đĩ đang bỏ chạy kia, bắn!"
Đại tá Zinoviev cho Grossman xem qua nhật ký chiến trường của Sư đoàn trong mấy tháng trước đó.
Tháng 10.
Bí thư Đoàn Eretik buộc phải ném lựu đạn nhưng anh đang gần chết vì nhiều vết thương và ko đủ sức. Quả lựu đạn nổ ngay trên tay anh, giết chết anh và mấy tên Đức.
1 chiếc máy bay hỏng được mấy con bò kéo đi. Binh lính mang theo viên chỉ huy bị thương của họ là Muratov đi liền 12km.
Lính Hồng quân Petrov nói: "Tại mặt trận quân ta được lãnh đạo tồi."
1 nhóm trinh sát gồm 6 người do Trung uý Drozd dẫn đầu đã ko quay về. Drozd sau đó được tìm thấy với 2 vết lưỡi lê đâm. Anh ta đã chết và khẩu súng ngắn cũng đã biến mất nhưng giấy tờ và tiền vẫn còn trong người. Các binh sĩ còn lại ko tìm thấy. (***)
(*)Vassili Ivanovich Chapaev (1897 – 1919) là anh hùng của Hồng quân trong cuộc Nội chiến Nga, nổi tiếng vì đã bảo vệ được phòng tuyến sông Ural, nhưng đã chết đuối trên con sông này khi cố bơi vào bờ với 1 viên đạn găm vào vai.
(**)Hồng quân cũng như quân đội Nga Sa hoàng ko tin tưởng vào bít tất. Binh lính quấn xà cạp và đi ủng ra ngoài. Có 1 niềm tin mãnh liệt rằng xà cạp có tác dụng ngăn giá rét tốt hơn nhiều.
(***)Rõ ràng các binh sĩ đó bị nghi ngờ giết sĩ quan chỉ huy hoặc bỏ rơi anh ta.
Turilin và Likhatov xé thẻ Đảng (*). Gulyaev tuyên bố: "Tại sao phải đào hào, chúng thật vô dụng."
Lính Hồng quân Tikhy (**) hiếp cô chủ nhà nơi anh ta nghỉ đêm. Sợ bị trừng phạt, Tikhy lao ra khỏi nhà, lấy súng, nhảy lên 1 con ngựa và chạy đi đâu ko rõ. Việc tìm kiếm Tikhy đến giờ vẫn ko mang lại kết quả gì.
Binh lính phàn nàn rất nhiều vì hoàn toàn ko nhận được thư từ gì.
1 tờ giấy viết tay được ném từ trên máy bay xuống thị trấn Yampol: "Trong buổi lễ sáng ở thành phố Jerusalem, người ta đã nghe thấy lời của Đấng Cứu Thế. Những ai cầu nguyện, dù chỉ 1 lần, sẽ được tai qua nạn khỏi."
Thiếu uý Churelko quát các binh sĩ: "Lũ lợn! Chúng mày ko thích tao vì tao là dân Digan!" Sau đó anh ta nhảy lên ngựa và định phi lên tuyến đầu. Mọi người giữ anh ta lại, anh ta còn định tự bắn mình.
Lính Hồng quân Duvansky cưỡi bò và quật con bò bằng báng súng. Khi anh ta đang quất bò thì báng súng gẫy, khẩu súng bật lại làm Duvansky bị thương. Anh ta được đưa vào bệnh viện và sau đó ra toà án binh.
Đảng viên Evseev làm mất sổ ghi chép. Mấy người lính tìm được cuốn sổ đó, bên trong kẹp 1 bài kinh cầu nguyện chép tay.
Các trinh sát Kapitonov và Deiga (có lẽ là đi trinh sát ở sau lưng địch) cải trang bằng quần áo thường dân và tham gia 1 buổi họp tại đó bọn Đức tổ chức bầu Starosta (trưởng làng tại các vùng quân Đức chiếm đóng) (***). Bọn Đức quát: "Những ai ko phải là người địa phương, đứng dậy!" Họ đứng dậy và bị bắt.
Thực đơn tại 1 bếp ăn dã chiến của bọn Đức. Buổi sáng - bữa điểm tâm: cà phê, thường là ko đường, và bánh mì phết mỡ lợn. Bữa chính gồm 1 món súp củ cải đỏ hoặc súp thịt. Bữa tối: cà phê và bánh mì. Bữa chính 2 món tức là thêm món thịt được cấp cho chúng mỗi tuần 1 lần.
Hưởng ứng bản báo cáo của Đồng chí Stalin, y tá Rud đã hiến 250ml máu còn y tá Tarabrina là 350ml.
Trong bữa sáng ở dãy nhà dành cho sở chỉ huy, 1 cục băng đã được tìm thấy trong súp.
Binh sĩ Nazarenko đã đưa 2 thương binh nặng khỏi hoả tuyến và sau đó giết chết 10 tên lính phát xít, 1 hạ sĩ quan và 1 sĩ quan Đức. Khi có người bảo: "Cậu là 1 anh hùng," anh ta trả lời: "Thế mà anh hùng á? Tới Berlin - đó mới là anh hùng!" Anh ta thêm: "Ai cũng cảm thấy ổn khi đi cùng Chính uỷ Chernyshev trong trận chiến! Ông đã bò tới bên tôi ở nơi trận chiến đang ác liệt, cười và khích lệ tôi."
3 tên lính tiểu liên Đức bị vây trong 1 cánh đồng với vài đụn rơm. Lúc đó là ban đêm. "Đầu hàng đi!" Quân Soviet quát. Ko có tiếng trả lời. Thì ra những kẻ đứng đó đã chết, người dựa và những đụn rơm và đông cứng. Nhìn bề ngoài thì chắc có tay nghịch ngợm tai ác nào đó đã đặt chúng ở đấy từ ban ngày.
Grossman nhặt nhạnh những gì có thể từ những bản báo cáo chính thức, tiếp tục viết về cả các chi tiết chỉ mang tính minh hoạ và vụn vặt thu được trong các buổi phỏng vấn về cuộc sống quân đội.
Các vị sư trưởng thường nói: "Tôi đang ở ..." "Tôi đang trên tuyến đầu." Câu nói thường xuyên của họ là: "Đơn vị bạn tụt lại đã kéo chúng tôi theo." "Ôi, quân bạn, quân bạn." "Chiến lợi phẩm đó là của tôi." "Đó là những người lính phòng ko của tôi, họ đã bắn hạ máy bay Đức nhưng nó rớt xuống khu vực của đơn vị bên cạnh, thế là đơn vị bên cạnh tuyên bố chính họ mới bắn rơi cái máy bay đó." "Bao giờ cũng có vấn đề với các đơn vị bạn."
Nếu 1 sư đoàn chọc thủng được chiến tuyến địch, sư trưởng của nó sẽ nói: "Đơn vị bên cạnh đã ngăn chúng tôi tiến xa hơn." Và viên sư trưởng của sư đoàn đã rớt lại sau thì nói: "Họ nói thì dễ lắm. Trong khi tôi chịu gánh nặng chính của trận đánh thì đương nhiên họ sẽ dễ dàng đánh thốc lên."
1 buổi sáng lạnh lẽo, các izba toả khói như tàu chiến vào cảng. Ko có gió dù chỉ là thoảng qua. Hàng tá cột khói dựng thẳng đứng trên tuyết trắng nối giữa mặt đất và bầu trời xanh thẳm.
Ngay sau khi trận đánh kết thúc, 1 đám phụ nữ lao ra đồng, xông vào các chiến hào của bọn Đức để lấy lại chăn và gối của họ.
Trong 1 ngôi làng người Ukraina, những ngôi nhà kiểu khata vẫn được sơn trắng sau sự ra đi của bọn Đức giống như sau 1 bệnh dịch truyền nhiễm nguy hiểm tàn phá ngôi làng.
Khi bọn Đức tiến vào 1 ngôi nhà, con mèo đã bỏ ra sống bên ngoài trong suốt 3 tháng (những câu truyện kiểu này lan truyền ở khắp các làng mạc). Có lẽ những con mèo cảm nhận được người lạ hoặc biết mùi của bọn Đức.
(*) Thường thì lý do xé thẻ Đảng là vì sợ bị hành quyết nếu bọn Đức bắt được.
(**) Tikhy có nghĩa là "im lặng" trong tiếng Nga.
(***) "Trinh sát" trong Hồng quân gồm cả trinh sát quân sự như nghĩa thông thường của từ này và điệp viên tình báo quân đội ở cấp địa phương. Điều đó cho thấy các điệp viên này ko được huấn luyện và thiếu sáng tạo.
Đọc giữa các hàng ghi chép của Grossman có thể thấy những dân làng đã từng sống ở vùng Đức chiếm đóng tỏ ra lo lắng về việc họ sẽ bị nhà cầm quyền Soviet đối xử như thế nào. Nhiều người trong số họ đã huỷ giấy tờ tuỳ thân và muốn được xác nhận lại rằng họ sẽ ko bị trừng phạt.
Buổi sáng, Kuzma Ogloblin trở lại ngôi làng vừa được giải phóng. Ông từng là chủ tịch soviet của làng và đã đi theo du kích. Mặt ông sa sầm và lộ vẻ sắt đá, ông mặc chiếc áo khoác da cừu và vũ trang bằng 1 khẩu súng trường. Trong izba đầy người, Ogloblin nói: "Đừng sợ gì cả, hãy quay lại với đời sống. Các bạn cần giao nộp bất kỳ đôi ủng Đức nào. Ví dụ như bản thân tôi đã từng tấn công 1 chiếc ô tô Đức bằng lựu đạn, trong xe có 300 đôi ủng, và mặc dù tôi cần ủng, tôi vẫn ko lấy dù chỉ 1 chiếc. Các bạn muốn giấy tờ cho cái gì? Tất cả chúng ta đều biết nhau. Đừng sợ gì cả, cứ sống thôi! Bọn Đức đã gây ra chuyện này, chúng sẽ ko quay trở lại."
Trở lại Voronezh, đêm tại bệnh viện dã chiến, chúng tôi gặp 1 nữ bác sĩ. Trời tối đen, chỉ có ánh sáng mờ phát ra từ than cháy trong bếp lò. Nữ bác sĩ tỏ ra nhiều lời, bà ta đọc thơ và giảng triết lý. "Xin lỗi, ờ, tóc chị vàng phải ko?" Rozenfeld hỏi. "Ko, tóc tôi hoàn toàn trắng," bà ta trả lời. Tất cả lặng im 1 cách bối rối.
1 người bị thương: "Đồng chí đại uý, chúng tôi vừa có 1 cuộc tranh luận kịch liệt ở đây. Tôi nói cho đồng chí nghe được ko?"
"Cái gì, cái gì?" Đại uý gắt gỏng.
"Àh, chúng tôi tranh cãi xem nước Đức có còn tồn tại sau cuộc chiến này ko?"
Những người bị thương yêu cầu được cung cấp báo và vồ lấy chúng từ tay các hộ lý: họ cần chúng để cuốn thuốc hút.
1 đoàn tàu bệnh viện đỗ lại dọc đường, xung quanh toàn là tàu quân sự. Mỗi khi có 1 Ulyana, Galya hay Lena muốn trèo sang 1 toa hàng có sưởi (teplushka), các chú lính lập tức xuất hiện để "giúp đỡ" các cô y tá trèo vào. Những tiếng la hét và cười đùa vang lên khắp sân ga.
Chúng tôi chào tạm biệt bệnh viện dã chiến. Tôi nhớ là trên đường ra mặt trận tôi đã tạt qua thăm viên sĩ quan chỉ huy tại đây như thế nào. Tôi đang đói và được mọi người đặt trước mặt 1 phạng súp củ cải đỏ nhà làm kiểu Ukraina tuyệt vời. Ngay khi tôi vừa đưa muỗng đầu tiên lên miệng thì thì Bukovsky gào lớn: "Nhanh lên! Chạy thôi. Tàu sắp chạy." Tôi lao theo anh ta nhưng phạng súp đó vẫn ám ảnh tôi hàng tuần lễ.
Chúng tôi chuyển sang 1 đoàn tàu dân sự. Nó đông nghẹt. 1 nhân viên soát vé nói với 1 người đàn ông mặc áo khoác đen: "Nhường ghế cho những người lính đi, hôm nay họ ở đây nhưng ngày mai họ có thể mất mạng rồi." 1 anh lính người Uzbek đang hát ông ổng bằng tiếng Uzbek, cả toa đều nghe thấy tiếng anh ta. Thứ tiếng của anh ta với chúng tôi nghe thật buồn cười, cách phát âm cũng kỳ cục. Các chú lính Hồng quân nghe anh ta chăm chú, hơi tỏ ra ngượng nghịu vì phải cố nhịn cười.
Grossman 1 lần nữa được nghe chuyện về vùng địch tạm chiếm.
1 ông lão chờ đợi bọn Đức tới. Ông trải khăn lên bàn, bày lên đó nhiều món ngon. Bọn Đức tới và cướp sạch ngôi nhà, ông lão treo cổ tự vẫn.
Trung đoàn trưởng Kramer đã đánh nhau kịch liệt với bọn Đức. Khi ông đổ bệnh trong 1 trận đánh, sốt 40 độ C, mọi người đổ ít nước sôi vào trong 1 cái thùng, viên trung đoàn trưởng to béo trèo vào thùng và khoẻ lại.
Cuộc tổng tấn công vào tháng 1 được Stalin cương quyết tiến hành trái với lời khuyên của Zhukov đã ko thể tiếp tục đúng như những người có đầu óc thực tế đã lo ngại. Quân đội Đức chưa đến mức sụp đổ như những gì Stalin tuyên bố sau thành công của các cuộc phản công gần Moscow tháng 12. Grossman tình cờ ghi lại vài báo cáo chiến sự thời WW1 mang một sắc thái khó chịu nghe rất quen thuộc (với tình hình hiện nay). Những lời phê phán ẩn dưới cách trình bày về các cuộc tấn công năm xưa trong các cuốn sổ ghi chép của ông cũng nguy hiểm như ghi chép lại những ý kiến trái chiều về các "sự kiện bất thường."
Theo lệnh của tướng chỉ huy pháo binh Ivanov gửi cho chỉ huy các Tập đoàn quân 7, 8, 9 và 11: "26/1/1916. Hầu như toàn bộ các cuộc tấn công của quân ta trong các trận đánh trước đều theo cùng 1 kiểu: Binh lính chọc thủng 1 vị trí trên chiến tuyến địch, buộc các lực lượng còn lại trên tuyến đầu của địch bỏ các chiến hào và công sự, đuổi theo chúng 1 cách ko kiểm soát để rồi bị tấn công ngược trở lại bởi đơn vị địch bên cạnh hoặc quân dự bị của chúng, rút lui ko chỉ về tuyến vừa mới chiếm được mà thường là rút về tận tuyến trước khi tấn công vì tuyến mới chiếm được ko có hoả lực yểm hộ với thiệt hại to lớn ... Đó chỉ là 1 chiến thắng chiến thuật ko đem lại kết quả chiến lược nào giống như 1 thứ đồ chơi đẹp và đắt giá nhưng vô dụng." Những quan sát của vị tướng năm xưa và những gì đang được thực hiện ở khu vực Zaliman mùa đông này giống nhau 1 cách đáng ngạc nhiên.
Thêm 1 chút về cảnh nghèo túng của nhân dân, sự bần hàn buồn nhưng đẹp đẽ. Những người bị thương được đãi 1 mẩu cá trích và 50g vodka nếu bị nhiều vết thương 1 lúc và được nằm giường có ga. Các phi công chiến đấu đang biểu diễn 1 kỳ tích - họ uống trong những chiếc cốc vốn những chai thuỷ tinh bị đập gãy cổ chai 1 cách thô bạo. Những chiếc ủng da cừu (unty) của họ ko có gót. 1 chính trị viên nói với 1 hạ sĩ quan quân nhu: "Đám phi công này cần được cấp những đôi ủng mới, chân họ sẽ cóng mất."
Viên hạ sĩ quan lắc đầu: "Chúng tôi chẳng có đôi nào mà cấp."
"Thế này là tốt rồi," viên phi công nói. "Tôi vẫn đủ ấm."
Việc thiếu thốn trang thiết bị phần lớn là do hậu quả của các cuộc rút chạy thảm hại năm 41, khi đó rất nhiều quân trang quân dụng và kho tàng đã bị bỏ lại trên đường rút. Chỉ có 1 cách để kiếm được đồ thay thế là đút lót vodka cho các sĩ quan quân nhu, 1 giải pháp mà lính tráng rất ghét.
MƯỜI MỘT
VỚI LỮ ĐOÀN TĂNG CỦA KHASIN
Sau khi cuộc tổng tấn công tháng 1/1942 của quân Soviet kết thúc 1 cách thảm hại, Grossman bắt đầu phản ánh tâm trạng thay đổi như chong chóng của người Nga. Họ đã đi từ sự hoài nghi thất vọng trong mùa hè khủng khiếp năm 41 đến sự sợ hãi vào mùa thu khi quân Đức tiến sát Moscow, tiếp theo đó là sự lạc quan cuồng nhiệt trong cuộc tổng phản công quanh khu vực thủ đô, và giờ đây lại là sự chán nản.
1 người Nga phải lao động cật lực, cuộc sống của anh ta cũng rất khó khăn, nhưng trong thâm tâm anh ta ko nhận thức rõ sự khó khăn vất vả đó. Trong chiến tranh, tôi chỉ thấy có 2 kiểu phản ứng với những gì xảy ra xung quanh: hoặc cực kỳ lạc quan, hoặc hoàn toàn bi quan. 2 kiểu tâm trạng này thay đổi từ thái cực này sang thái cực kia 1 cách nhanh chóng, bất ngờ và dễ dàng. Ko có tâm trạng trung dung giữa 2 thái cực đó. Ko ai sống với suy nghĩ rằng cuộc chiến sẽ kéo dài mà chỉ cố gắng hết tháng này qua tháng khác để có thể đi tới chiến thắng, thậm chí cả những người nói rằng họ rất ko tin vào chiến thắng. Chỉ có 2 loại cảm nghĩ: thứ nhất - địch bị đánh bại; thứ 2 - địch ko thể bị đánh bại.
Grossman bị ảnh hưởng hết sức sâu sắc bởi tinh thần hi sinh chân chính của những người lính bình thường và những sĩ quan trên tuyến đầu, ông tỏ ra hết sức xúc động khi viết về đề tài này.
Trong chiến tranh, 1 người đàn ông Nga như khoác 1 tấm áo trắng tinh. Anh ta có thể sống trong tội lỗi nhưng anh ta đã chọn chết như 1 vị thánh. Tại mặt trận chỉ có những suy nghĩ và tâm hồn trong sạch như những thầy tu khổ hạnh.
Ở hậu phương người ta sống trong những luật lệ khác và chúng có lẽ ko bao giờ phù hợp được về mặt đạo đức với những gì diễn ra ở mặt trận. Luật của mặt trận là sự sống còn, là cuộc đấu tranh sinh tồn. Những người Nga chúng ta ko biết làm thế nào để sống như 1 vị thánh, chúng ta chỉ biết làm thế nào để chết như 1 vị thánh. Mặt trận chứng kiến những cái chết Nga thần thánh, ở hậu phương là 1 tội lỗi đối với 1 người Nga.
Tại mặt trận có những lúc phải chịu đựng, nhẫn nhục và khuất phục trước những nghịch cảnh ko thể tưởng tượng được. Đó là sự chịu đựng của những người mạnh mẽ. Đó là sự chịu đựng của 1 quân đội vĩ đại. Sự vĩ đại của tâm hồn Nga thật phi thường.
Mặt khác, Grossman tỏ ra cực kỳ khó chịu với những lời tuyên truyền cố lấp liếm sự kém cỏi của lãnh đạo quân đội Soviet trong 6 tháng vừa qua.
Huyền thoại của Kutuzov về việc vạch chiến lược cho năm 1812. Những xác chết đẫm máu của chiến tranh bị che phủ dưới 1 lớp tuyết trắng của những lời nói quy ước về tư tưởng, chiến lược và nghệ thuật chiến tranh. Có những người đã thấy cuộc rút lui khi những người khác phải nằm xuống và bị che phủ dưới bức màn giống như vậy. Đó là huyền thoại về Cuộc Chiến tranh Vệ quốc Vĩ đại lần thứ nhất và giờ là lần thứ 2.(*)
Khi còn ở Phương diện quân Nam với Tập đoàn quân 37, Grossman đã thăm lữ đoàn tăng do Đại tá Khasin chỉ huy. Tại đây ông đã bỏ ra khá nhiều thời gian với Đại uý Kozlov, 1 sĩ quan người Do Thái.
Tại lữ đoàn tăng của Khasin. Đại uý Kozlov, chỉ huy tiểu đoàn bộ binh cơ giới, đang triết lý về cuộc sống và cái chết khi nói chuyện với tôi ban đêm. Anh ta là 1 chàng trai trẻ với hàm râu mảnh, trước chiến tranh học nhạc tại Nhạc viện Moscow. "Tôi thường tự nhủ mình có thể bị giết bất cứ lúc nào, hôm nay hay ngày mai. Khi tôi nhận thức rõ điều đó, tôi trở nên dễ sống hơn, mọi thứ trở nên đơn giản và thậm chí ko hiểu sao còn rất rõ ràng rành mạch. Tâm trạng tôi rất bình thản. Tôi xung trận mà chẳng sợ gì cả vì tôi chẳng có mong chờ gì. Tôi hoàn toàn tin tưởng rằng 1 tay chỉ huy 1 tiểu đoàn bộ binh cơ giới sẽ phải chết, rằng hắn ko thể sống sót. Nếu tôi ko có niềm tin vào cái chết chắc chắn đó, tôi sẽ cảm thấy tồi tệ và có lẽ ko thể cảm thấy thoải mái, bình tĩnh và can đảm trong chiến đấu.
Kozlov kể cho tôi nghe hồi năm 1941, ban đêm anh ta thường hát những trích đoạn aria từ các vở opera trong 1 khu rừng gần Bryansk ngay trước chiến hào quân Đức. Thường thì bọn Đức cũng nghe anh ta hát 1 lúc rồi bắt đầu nã súng máy vào nơi phát ra tiếng hát. Có lẽ chúng ko ưa giọng hát của anh.
Kozlov nói với tôi, theo quan điểm của anh ta, người Do Thái ko chiến đấu tốt lắm. Anh bảo họ chiến đấu chỉ như những người bình thường trong khi với 1 cuộc chiến như thế này người Do Thái lẽ ra phải chiến đấu như 1 kẻ cuồng tín.
Mũi nhọn của sự thù ghét chủng tộc trực tiếp nhằm vào người Do Thái chính thống, những người thực tế cũng rất phân biệt chủng tộc và tin tưởng mù quáng vào sự thuần khiết về chủng tộc. Giờ đang có 2 thái cực: 1 bên là những kẻ phân biệt chủng tộc đang triệt hạ thế giới, bên kia là những người Do Thái thuần chủng, những người bị tập trung triệt hạ nhất trên thế giới.
1 người thường sợ những gì họ ko quen, họ có thể quen với mọi thứ trừ cái chết, có lẽ vì họ chỉ chết có 1 lần.
Chiến tranh là 1 nghệ thuật, trong đó các yếu tố như toan tính, kiến thức và kinh nghiệm kết hợp với cảm hứng, may rủi và cả những điều hoàn toàn vô lí (Pesochin nói trong trận đánh ở Zaliman). Các yếu tố này tương hợp với nhau, nhưng đôi khi chúng lại trở nên xung đột nhau. Nó giống như 1 khúc nhạc biến tấu ko ai nghĩ ra nổi nếu ko có kỹ thuật đỉnh cao.
Trăng mọc trên bãi chiến trường phủ tuyết.
Grossman tiếp tục thu thập những chủ đề đặc sắc cùng những chi tiết minh họa khác.
Lính lái xe tăng hạng nặng Mikhail Pavlovich Krivorotov, 22 tuổi, thân hình to lớn, mắt xanh, từng lái máy liên hợp gặt đập tại 1 nông trường quốc doanh (**) ở Bashkiria từ khi mới 20 tuổi, nhập ngũ tháng 12/1940. “Trước đây tôi chưa từng nhìn thấy 1 chiếc tăng nào, và ko ngờ là tôi thích chúng ngay từ cái nhìn đầu tiên. Những cỗ xe tăng thật là đẹp. Tôi là 1 lái xe kiêm thợ máy. Máy xe cùng với hỏa lực của nó biến nó thành 1 cỗ máy vàng, cực mạnh.
“Địch có pháo và cối, quân ta vượt qua 1 con mương và xông vào làng. Tôi hét: “Pháo ở cánh trái!” Chúng tôi tiêu diệt khẩu pháo đó và vài khẩu súng máy. Sau đó 1 phát đại bác bắn trúng sườn trái, chiếc xe tăng bốc cháy. Kíp lái nhảy khỏi xe còn tôi vẫn ở lại trong chiếc tăng đang cháy và hạ được pháo đội địch. Tôi chỉ có cảm giác hơi nóng ở lưng dù mọi thứ chìm trong lửa. Cỗ xe tăng thực sự từng là 1 cỗ máy nhanh nhất, tôi thấy tiếc vì phải bỏ nó, rất tiếc. Tôi trèo lên tháp pháo và nhảy khỏi cửa nóc như 1 mũi tên. Nhiên liệu và lớp sơn vẫn còn đang cháy.”
Marusya, điện đài viên. Ai cũng tán tỉnh cô, ai cũng biết cô. Cô gọi mọi người bằng đầy đủ họ tên và mọi người đều gọi cô là: “Marusya, Marusya!” Nhưng chưa 1 ai thấy mặt cô.
Abashidze, 1 đồng chí vui tính, đoàn viên Komsomol, tiểu đoàn trưởng và là 1 kẻ thô tục. Anh ta nói chuyện 1 cách tục tĩu, xấc láo, vô lễ với bà chủ nhà. Khi anh ta hỏi xin lửa từ 1 người đang hút thuốc, anh ta bảo: “Tôi có thể sờ đầu cái dụng cụ sung sướng của anh ko?”
Giờ mọi người ko nói ai đó “bị giết” nữa mà nói “anh ấy đã đóng ván”. “Bạn của tôi đã đóng ván, anh ấy thật là 1 thằng cha tuyệt vời.” (***)
(*) Cuộc chiến tranh chống đạo quân xâm lược Pháp của Napoleon năm 1812 cũng từng được người Nga gọi là Chiến tranh Vệ quốc Vĩ đại. Kutuzov khi đó là chỉ huy quân Nga đã rút lui, bỏ cả Moscow - Maseo.
(**) Mỗi nông trường quốc doanh là 1 sovetskoe khozyaistvo (nông trường Soviet), lao động sống tập trung trong những khu nhà lớn thường là 2 tầng, trong khi đó nông trang tập thể được thành lập trên cơ sở 1 làng hoặc 1 khu dân cư nhỏ.
(***) Cách nói trại đi của việc đặt ai đó vào quan tài và đóng nẹp.
Một ngày mới quang đãng và tươi đẹp. Các trận không chiến đang diễn ra trên những mái nhà trong làng. Quang cảnh khủng khiếp - những con chim sơn chữ thập màu đen và sao đỏ. Mọi nỗi sợ hãi, mọi suy nghĩ, mọi điều khủng khiếp xuất hiện trong tâm trí và trái tim con người vào những khoảng khắc cuối đời của chiếcmáy bay, khi đôi cánh của nó dường như đang thể hiện ra tất cả những cử động, những suy nghĩ trong đôi mắt, cánh tay và vầng trán người phi công ấy (người phi công bị bắn rơi, ở đây tác giả cố tình không muốn nói là phe nào để thể hiện sự tàn nhẫn và vô nghĩa của chiến tranh - Danngoc). Chúng bay rất thấp, ngay sát trên mái nhà. Một trong số đó đâm đầu xuống đất. Năm phút sau - lại một chiếc khác. Một người chết ngay trước mắt mọi người, một thanh niên khỏe mạnh, anh ta đã rất muốn sống sót. Anh ấy sẽ bay, sẽ rùng mình, sẽ sợ hãi ra sao nếu chiếc máy bay ấy không bị trúng đạn. Đó là những phát đạn bắn trượt vào một trái tim người đang bay phía trên cánh đồng tuyết trắng. Bản tính sói độc và cáo già của những chiếc Messer chóp mũi màu vàng. (Đọc tới đây thì em hiểu chiếc máy bay kia có lẽ là máy bay Xô viết bị rơi - Danngoc).
Cánh phi công nói: “Đời chúng tôi như tấm áo của bọn trẻ con – ngắn và dính đầy cứt.” (*)
Nghịch lí kỳ cục – đám Messer hầu như ko được hỗ trợ khi đối đầu với những chiếc máy bay kiểu chim mòng biển quân ta vì những chiếc mòng biển quá chậm chạp.
Niềm vui của 1 nhà quay phim khi quay được tấn bi kịch trên ko: “Tôi chỉ cần tút sửa lại những dấu chữ thập, thế là xong!”
Xác viên phi công nằm suốt đêm trên 1 quả đồi đẹp đẽ phủ đầy tuyết, trời rất lạnh và sao rất sáng. Bình minh lên khiến quả đồi chuyển thành màu hồng, và người phi công vẫn nằm đó trên ngọn đồi hồng.
Ko có gì ngạc nhiên, Grossman đã bị mê hoặc bởi câu chuyện lạ thường về 1 người chính trị viên đã vươn cổ ra ngăn cản 1 vụ án xử oan khủng khiếp
Chính trị viên cao cấp Mordukhovich, 1 người Do Thái nhỏ thó đến từ Mozyr, là chính trị viên 1 tiểu đoàn pháo. 1 lính của tiểu đoàn ông vốn là 1 công nhân người Tula cao lớn, tên anh ta là Ignatiev. Anh này cực kỳ dũng cảm, 1 trong những người lính tốt nhất của tiểu đoàn. Chính trị viên có việc phải đi 1 thời gian và trong lúc ông vắng mặt, Ignatiev bị lạc lại phía sau và gia nhập 1 đơn vị khác đang chiến đấu trong 1 trận phòng thủ. Khi trận đánh tạm lắng, Ignatiev được gửi trở lại đơn vị cũ và khi đang trên đường về đơn vị anh bị đội tuần tra của NKVD chặn lại. Anh ta bị bắt như 1 kẻ đào ngũ, bị đưa ra tòa án quân sự và bị tuyên án tử hình. Lúc này, chính trị viên Mordukhovich đã quay về đơn vị và biết được số phận dành cho anh. Mordukhovich lao tới gặp chính ủy sư đoàn và nói với ông Ignatiev là 1 người lính tuyệt với như thế nào. Chính ủy sư đoàn lấy tay ôm đầu: “Giờ tôi ko thể làm gì được nữa rồi!”
Ignatiev bị đưa đi xử bắn, nhóm hành quyết gồm 1 đặc vụ, 1 sĩ quan từ sở chỉ huy, 2 lính và chính trị viên phó. Họ dẫn anh ta tới bên 1 cái cây nhỏ, viên sĩ quan rút súng ngắn chĩa vào sau gáy Ignatiev. Súng hóc đạn. Ignatiev quay lại nhìn đằng sau, thét lớn rồi chạy vào rừng. Nhóm hành quyết bắn theo anh ta nhưng trượt, anh ta biến mất. Bọn Đức chỉ ở cách đó có 3km, Ignatiev đã lang thang 3 ngày trong rừng rồi nhân lúc ko ai trông thấy quay trở lại tiểu đoàn và tới hầm của Mordukhovich.
Mordukhovich nói: “Tôi sẽ che dấu cậu, đừng lo!” Mordukhovich đưa cho Ignatiev 1 ít thức ăn nhưng anh ta chỉ run lên và khóc như mưa chứ chẳng thể ăn được gì. Mordukhovich tới nói chuyện với chính ủy sư đoàn, lúc đó thì Mordukhovich đã che giấu Ignatiev suốt 5 ngày rồi. “Người này đã quay lại với vẻ cam chịu, anh ta nói với tôi: “Tôi thà chết trong tay người mình còn hơn chết vì tay bọn Đức.”” Chính ủy sư đoàn lên gặp chính ủy quân đoàn, rồi chính ủy quân đoàn lại lên gặp chỉ huy tập đoàn quân. Bản án được bãi bỏ. Giờ Ignatiev đi theo Mordukhovich suốt ngày đêm.
“Tại sao anh cứ đi theo tôi?”
“Tôi sợ bọn Đức có thể giết ông mất, đồng chí chính trị viên ạh. Tôi phải bảo vệ ông.”
Tuy vậy, 1 số câu chuyện có lẽ hơi giống với 1 chuyện tưởng tượng ở thành phố hơn là chuyện thật ngoài mặt trận.
1 người lính bị cáo buộc đào ngũ đã thoát khỏi phiên tòa khi bọn Đức tấn công. Những người áp giải anh ta trốn vào bụi, kẻ đào ngũ chộp lấy 1 khẩu súng trường của nhóm áp giải và hạ 2 tên Đức, bắt sống tên thứ 3 và lôi hắn đi cùng đến tòa án. “Anh là ai?” Mọi người hỏi.
“Tôi đến để được xét xử.”
Những người bị kết án shtrafroty, tức là đưa vào các đại đội trừng giới, thường được gọi là smertnik (người chết), vì chẳng ai lãnh án đó mà hi vọng sống sót được. Họ được Nhà nước Soviet cho cơ hội rửa sạch tỗi lỗi bằng máu của chính mình, nhiều trường hợp đã chứng tỏ sự can đảm phi thường. 1 smertnik tên là Vladimir Karpov thậm chí còn được nhận phần thưởng cao quý nhất: danh hiệu Anh hùng Liên Xô. Đương nhiên anh này ko phải là Ctrị phạm vì những người phạm tội này, theo lệnh của Stalin, ko bao giờ được nhận bất kỳ loại danh hiệu gì.
Đại đội của các smertnik gồm những người thay cho việc phải chấp hành bản án thì được đưa lên tuyến đầu. Chỉ huy là 1 trung uý đã bị kết án tử hình vì tự làm mình bị thương.
Những thành viên trong cái đại đội ghê sợ này người đầy lông lá, mặt mũi tê cứng và đầy những vết phát cước màu hồng vì giá lạnh âm 40 độ C. Họ mặc những áo choàng rách rưới. Họ ho như cuốc kêu, tiếng ho như thể phát ra từ đâu đó trong bụng, khàn đục, nghe như tiếng chó sủa. Ai nấy đều râu ria xồm xoàm. Sử dụng hoả lực pháo, súng máy và cả xích xe, những người lính tăng đã chọc thủng được tuyến công sự địch và đưa được 1 phân đội xe tăng có bộ binh tùng thiết tới Volobuevka. Phân đội này do Thượng sĩ Tomilin chỉ huy. Trận đánh kết thúc sau 8 tiếng đồng hồ đánh nhau. Phân đội xe tăng - bộ binh của Tomilin đã chiếm được 12 căn nhà, bản thân Tomilin hạ được 10 tên phát xít. Nhóm của Trung sĩ Galkin hạ được 30 tên, tấn công 6 ngôi nhà và công sự bê tông, tiêu diệt sở chỉ huy tiểu đoàn địch bằng lựu đạn. Đến sáng họ hội quân với các đơn vị quân ta đang tiến tới ở ngoại vi phía nam Volobuevka. Khi dẫn các binh sĩ xung trận, Tomilin đã hét: "Cố lên nào, quân ăn cướp, tiến lên!"
(*) Câu nói này trở nên phổ biến cả trong binh lính Đức và Hồng quân.
Trích từ nhật ký chiến trường của Trung đoàn Lựu pháo Cận vệ 7:
Ngày 12/1, hạ sĩ Ivanov và trinh sát Ofitserov nhìn thấy 7 người trên 1 sườn đồi. Thì ra đó là bọn phát xít, chúng đang định dìm 1 người xuống 1 lỗ băng. Bọn phát xít hoảng sợ vì những loạt đạn của các chiến sĩ ta và bỏ chạy, để lại 1 y sĩ gần đông cứng. Anh ta đã tê liệt vì sợ.
Ngày 13/1, thiếu uý Belousov được lệnh đi bắt liên lạc với cánh bộ binh. Anh phải vượt qua 1 con mương rất lớn cùng 1 khu rừng. Trong khi đang trượt tuyết xuyên rừng, anh phát hiện đường dây nối giữa 2 trạm truyền tin của bọn Đức. Trạm gần nhất ko có ai canh. Belousov bỏ đồ trượt tuyết và cắt đường dây, sau đó đi vào rừng, tìm thấy 1 cuộn dây rỗng và phá hỏng 70m dây điện thoại tại đó.
Grossman tiếp tục ghi chép về các lối ăn nói và thuật ngữ kỳ lạ. Vodka được gọi là "Sản phẩm 61" vì đó là vị trí của nó trong danh sách những thứ được cấp.
Bữa ăn tại 1 Trung đoàn Lựu pháo Cận vệ 7. Từ lóng "nạp" (put into shape - Maseo dịch thoát) được sử dụng liên tục. "Tôi sẽ chỉ nạp khi có bàn ghế tử tế." "Tôi sẽ nạp ít thịt cừu." "Tôi sẽ nạp ít bắp cải muối chua."
1 cuộc ko kích của 28 máy bay địch. Ko có 1 pháo thủ nào rút lui. "Họ đã tự hàn chết mình vào pháo."
1 chính trị viên thuộc tiểu đoàn Cận vệ 5 đã phát điên sau khi chịu 1 trận ko kích và 1 trận tấn công bằng xe tăng của địch.
Những biểu tượng to tướng được vẽ trong các chiến đồ dành cho các chỉ huy tiểu đoàn.
1 chính trị viên đã cắt bỏ các vạch trên cầu vai.(*)
Ban đêm, Đại tá Tarasov chỉ huy Trung đoàn pháo binh Cận vệ nằm trên sàn izba đọc cuốn Faust. Ông đeo 1 cái kính kẹp mũi (kính ko có gọng) luôn được ông lau sạch bằng 1 miếng da.
(*) "Vạch" hay "tà vẹt", như cách gọi của dân nhà binh, là biểu thị cho cấp bậc. Các hạ sĩ quan dùng phù hiệu có hình khối vuôn (cube).
Đại tá Tarasov kể chuyện ông đã "phủi áo bọn Đức" như thế nào, câu chuyện đã cho thấy tinh thần của 1 người lính pháo binh. Bộ binh thông báo bọn Đức ăn trưa khi có 1 hiệu kèn. Bếp dã chiến của chúng đã bị phát hiện vì có khói bốc ra. Tarasov ra lệnh: "Tập hợp số liệu, nạp đạn và thông báo khi đã sẵn sàng!" Bọn Đức bị nã pháo bằng hoả lực tập trung, đám pháo binh nghe thấy nhiều tiếng kêu thét.
1 tù binh Đức trên 1 tàu hoả bệnh viện. Hắn cần được tiếp máu thì mới sống được. Hắn gào thét: "Nein, Nein!" (*) (Hắn ko muốn được tiếp bằng máu Slavơ). Vậy là hắn chết 3h sau đó.
Binh lính bắt đầu bỏ chạy khỏi chiến trường, 1 chính trị viên tiểu đoàn 2 tay cầm 2 khẩu súng ngắn gầm lên: "Các anh định chạy đi đâu, lũ truỵ lạc, đi đâu? Tiến lên, vì Đất Mẹ, vì Chúa Jesus, Đ.mẹ (**)! Vì Stalin, lũ truỵ lạc!" Binh lính quay trở về và chiếm lại vị trí phòng thủ cũ.
1 người lính tóc quăn, ko rõ họ, đã đánh xe ngựa vòng qua hậu phương quân Đức trong 12 ngày. Anh ta giấu 1 khẩu cối và đạn dưới đống rơm chất trên xe, lôi ra bắn rồi lại giấu trở lại dưới đống rơm. Khi gặp bọn Đức anh ta hát vang, chúng chưa bao giờ nghi ngờ anh. Khi đã đi xa khỏi bọn chúng anh lại lôi khẩu cối ra bắn vào chúng.
Phóng viên ảnh Ryumkin đang nguyền rủa đám pháo binh của trung đoàn pháo cận vệ vì đã khai hoả vào sáng sớm khiến chụp họ ko ăn ảnh.
Trung uý Matyushko chỉ huy 1 chi đội xung kích, nhiệm vụ của họ là tiêu diệt bọn Đức đang chiếm giữ mấy ngôi nhà. Chi đội đánh vào làng, xông vào mấy ngôi nhà đó. Matyushko nói: "Người của tôi toàn là lũ trộm cướp. Trận chiến trong những ngôi làng này giống 1 trận đánh cướp." Đôi khi họ bóp chết bọn Đức bằng tay ko.
Tiếng 1 trung sĩ vẳng ra từ trong khói lửa: "Đừng bắn vào đây, tôi đã chiếm nhà này rồi."
1 thành viên đội xung kích vào nhà và nhìn lướt nhanh qua những người ngồi trong đó bằng ánh mắt tối sầm. Mọi người đều hiểu nó đã trở thành 1 thói quen, thói quen của 1 kẻ chuyên xông vào nhà để giết chóc. Trung uý Matyushko cũng vậy, anh vừa giải thích về cách nhìn lướt đó vừa cười: "1 mình hắn có thể giải quyết tất cả chúng ta đấy!"
Chúng tôi tiến vào Malinovka cùng tiểu đoàn bộ binh cơ giới do Đại uý Kozlov chỉ huy. Các ngôi nhà đang bốc cháy. Bọn Đức đang gào thét, chúng sắp chết. 1 trong số chúng, cả người hắn cháy sém đen thui, đang bốc khói. Những chiến sĩ ta đã ko ăn uống gì 2 ngày nay, họ chỉ nhai bột kê khô cô đặc khi hành quân. Lính tráng kiểm tra 1 hầm kho đã bị phá huỷ và ngay lập tức thu được 1 ít khoai tây, họ lèn chúng vào ấm cùng với tuyết rồi đặt trên than hồng tìm thấy trong 1 izba đang cháy dở.
(*) "Nein! Nein!" - "Ko! Ko!" - tiếng Đức - Maseo
(**) Bản gốc là "Motherfucker", ko hiểu còn cách dịch nào khác ko :D - Maseo.
Thế quái nào mà lại có nguyên 1 con ngựa chết trong hầm kho? Thật ko thể hiểu nổi! Trong cái hầm này còn có cả 1 thùng bắp cải muối chua đã vỡ. Lính tráng đang ăn rào rào với vẻ tham lam. "Tốt cả, ko có thuốc độc." Cũng trong hầm người ta đang băng bó cho 1 phóng viên ảnh bị thương, anh ta tựa vào xác con ngựa.
"Sau đó máy bay ta oanh kích khu vực và thả bom xuống đầu chúng tôi (1 thành viên của tiểu đoàn bộ binh cơ giới kể). Tiểu đoàn trưởng Kozlov còn đang phải chống lại 1 cuộc tấn công của xe tăng địch. Anh ta trông có vẻ rất sung sức và say máu. Những cỗ xe tăng bị đánh lui sau 1 cuộc tấn công chớp nhoáng.
Quân đoàn Cô dắc Cận vệ 3 đang hành quân ra mặt trận. Binh lính chất các trang thiết bị của sở chỉ huy lên 1 chiếc xe tải, cuộn lại những dây thông tin. Buổi tối giá băng đẹp ko thể tả được. Ko khí thinh lặng và trong trẻo, củi cháy lách tách trong bếp dã chiến. Những chàng kỵ binh đang dắt ngựa đi. Giữa phố, 1 cô gái đang vừa hôn 1 anh lính Cô dắc vừa khóc, họ mới lập gia đình với nhau 3 ngày trước. Đối với người con gái làng Pogorelovo gần Kursk này, anh ta đã trở thành những gì thân thiết nhất với cô.
1 pháo thủ tuyệt vời của tiểu đoàn, người đã chiến đấu từ ngày đầu của cuộc chiến, đã hy sinh vì trúng mảnh đạn khi đang cười. Và anh đang nằm chết đằng kia, vẫn cười. Anh nằm đó suốt cả ngày, và rồi 1 ngày nữa. Ko ai muốn chôn anh, mọi người đều tỏ ra lười biếng vì mặt đất đóng băng cứng như đá. Anh đã có những người đồng chí tồi, họ ko muốn chôn những người chết! Họ bỏ những người chết lại mà đi, ko có đội chôn cất nào, chẳng ai quan tâm vụ đó. Tôi báo cáo với sở chỉ huy tiền phương về việc này bằng 1 bức điện mã hoá. Bọn dân Châu Á đáng ghét này mới nhẫn tâm làm sao! Làm sao người ta có thể thường xuyên nhìn thấy những lính dự bị tiến ra chiến trường hay các lực lượng tăng cường đi qua những vùng chiến địa cũ giữa những xác chết ko được chôn cất. Ai có thể đọc được điều gì đang diễn ra trong tâm hồn những người đang tiến lên để thay chỗ những kẻ đang nằm khắp mặt tuyết kia?
Cuộc hành quyết 1 kẻ phản bội. Khi bản án còn đang được tuyên, lính công binh đã đào cho hắn 1 cái huyệt bằng cuốc chim. Đột nhiên hắn nói: "Bước sang bên đi, các đồng chí. 1 viên đạn lạc có thể trúng vào các anh."
"Tháo ủng ra," họ nói với hắn. Hắn tháo chiếc ủng thứ nhất rất khéo léo bằng ngón cái chân kia, chiếc ủng còn lại hơi mất thời gian 1 chút, hắn phải nhảy lò cò mất 1 lúc.
Từ tính dị thường của khu vực Kursk là 1 vấn đề với các chi đội pháo binh và hoả tiễn - nó làm đảo lộn la bàn và các thiết bị khác. Từ tính dị thường này đã chơi cho các pháo đội hoả tiễn Katyusha 1 vố, khiến những dàn Katyusha chơi cho cánh bộ binh 1 trận. Chúng đã bắn trúng vào tuyến đầu quân ta.
Buổi sáng, người ta đặt 1 cái bàn trải khăn đỏ trên đường làng phủ tuyết. Lính tăng trong lữ đoàn của Khasin tập hợp thành hàng và buổi lễ trao huân chương bắt đầu. Tất cả những người được tặng thưởng huân chương đều đã chiến đấu liên tục trong thời gian dài. Họ đứng thành hàng trông như 1 hàng công nhân xưởng nấu luyện gì đó: mặc áo khoác rách rưới, quần áo bóng dầu mỡ, họ có những đôi bàn tay lao động đen nhẻm và những khuôn mặt thợ thuyền điển hình. Mọi người xếp hàng bước tới bàn nhận huân chương, tuyết rơi dày khiến bước chân họ nặng nề và lạch bạch. "Chúc mừng anh được nhận phần thưởng Nhà nước cao quý này!"
"Phục vụ Liên Xô!" Họ trả lời bằng giọng khàn khàn của người Nga, người Ukraina, người Do Thái, người Tatar, người Gruzia. Đó chính là tinh thần Quốc tế Lao động thời chiến.
Đêm xuống chúng tôi nói chuyện trong tình trạng ko được tỉnh táo lắm với Kozlov, chỉ huy tiểu đoàn bộ binh cơ giới. Anh kể tôi nghe về người anh hùng đã nhận 2 huân chương lúc sáng mà tôi đang để mắt đến, chỉ huy trinh sát lữ đoàn, theo anh thì người này chẳng phải là anh hùng gì. Điều đó làm tôi bị shock vì tôi ko thể tưởng tượng còn ai anh hùng hơn người tôi vừa nhìn thấy lúc sáng trên đường làng.
Kozlov đưa cho tôi 1 cái huân chương chữ thập sắt mà anh ta đã lấy từ xác 1 tên sĩ quan Đức. Tên sĩ quan nằm đó, Kozlov kể, hắn bị thương nặng, đang lờ đờ và có cả trăm thùng đựng băng đạn tiểu liên xung quanh. Những người lính bắn hắn và tìm thấy 1 tấm bưu thiếp khiêu dâm trong túi hắn.
Sáng ra, Kozlov và Bukovsky quyết định thi bắn súng ngắn. Họ bước ra sau 1 gian nhà kho và đính tấm bia bắn lên 1 cây lê già. Họ nhìn tôi 1 cách thương hại và ban ơn - 1 kẻ thường dân chẳng có tí kinh nghiệm nào. Có lẽ hoàn toàn do ngẫu nhiên, tất cả các phát đạn của tôi đều bắn trúng hồng tâm. Những tay cựu binh - Kozlov và Bukovsky - ko bắn trúng bia dù chỉ 1 phát. Điều này tôi nghĩ ko phải do ngẫu nhiên.
Trong izba, Khasin đang đứng, vây quanh là ban tham mưu, đôi mắt ốc nhồi của ông tối sầm, mũi ông khoằm và 2 má xanh rì râu mới cạo. Trông ông như 1 người Ba Tư. Tay ông di trên bản đồ trông như móng vuốt của 1 loài ác điêu khổng lồ. Ông giải thích cho tôi về cuộc đột kích vừa qua của lữ đoàn tăng. Ông rất thích từ "vòng cua" và dùng từ này suốt: "Những chiếc tăng đang di chuyển theo đường vòng cua."
Tại sở chỉ huy tiền phương tôi được nghe kể lại rằng gia đình của Khasin đã bị giết ở Kerch, tại đó bọn Đức đã tiến hành 1 vụ thảm sát thường dân. Hoàn toàn tình cờ, Khasin xem những tấm ảnh chụp các xác chết trong hố chôn tập thể và nhận ra vợ con ông. Tôi đang nghĩ xem ông có cảm giác gì khi dẫn những chiếc xe tăng vào trận đánh? Thật khó có thể đánh giá chính xác con người này vì còn có 1 nữ bác sĩ trẻ ở cùng ông trong izba của ban tham mưu, cô ta đang ra lệnh cho ông với vẻ thô tục và xấc xược. Mọi người đều nói cô ta ko chỉ điều khiển viên đại tá mà còn điều khiển cả lữ đoàn tăng của ông. Cô ta xía vào mọi mệnh lệnh và thậm chí còn sửa cả bản danh sách những người xứng đáng trao huân chương gửi lên cấp trên.
Các cuộc phỏng vấn binh sĩ tiểu đoàn bộ binh cơ giới:
Mikhail Vasilievich Steklenkov, thân hình gầy gò, tóc vàng, sinh năm 1913, bỏ học năm lớp 5 để đi làm.
"Chúng tôi chẳng bao giờ cảm thấy buồn chán, chúng tôi ngồi cùng nhau ca hát, chẳng có lúc nào để buồn cả! Ai nấy quên đi bản thân khi nghĩ về quê hương. Bọn Đức đầu độc cha tôi bằng khí độc trong cuộc Chiến tranh Đế quốc (WW1 - Maseo). Tôi được gửi tới trường Quân - Chính ở Ivanovo hôm 23/7. Chuông báo động vang lên, các học viên xếp hàng và chúng tôi được nhận những gì chúng tôi nghĩ là mình xứng đáng, và chúng tôi lên đường.
"Họ hỏi tôi: "Sao mày lúc nào cũng có vẻ sung sướng thế?" Tại sao mà tôi phải buồn nhỉ? Bà chủ nhà hỏi: "Sao mày cứ hát mãi thế? Chúng ta đang trong thời chiến cơ mà!" Tôi trả lời: "Nhưng giờ chính là lúc tốt nhất để hát."
"Tôi có 1 kíp pháo thủ thật là dũng cảm, họ sẽ ko bao giờ rời khẩu pháo. Tôi nằm xuống và quan sát xem có máy bay ném bom ko. Tôi sẵn sàng trườn đi nếu cần ... Chỉ khi nào lấy thuốc lá chúng tôi mới phải chạy ... Tôi phụ trách 1 khẩu 45mm chống tăng. Bắn thẳng bằng khẩu này thật thú vị ...
"Có cái gì còn sống được sau cuộc chiến này? Nếu tôi còn sống, tôi sẽ về nhà, còn nếu ko thì cũng có gì là quá đặc biệt đâu? Tôi đã ko có thời gian lấy vợ trước khi cuộc chiến bắt đầu. Khi nào chúng tôi ko còn phải chiến đấu nữa tôi sẽ bắt đầu cảm thấy nhàm chán." Anh chàng này có những vết phát cước vì lạnh ở cả tay lẫn chân nhưng ko hề nói gì về điều đó.
"Tôi chẳng sợ gì những viên đạn - quỷ bắt nó đi - thậm chí nếu nó có giết chết tôi. Chúng tôi bắn, và tôi cảm thấy ổn."
Ivan Semyonovich Kanaev, sinh năm 1905 ở ở Ryazan, đã lập gia đình và có 4 con.
"Tôi đi nghĩa vụ ngày 3/7. Tôi đang chẻ củi thì bưu tá mang lệnh động viên tới. Chúng tôi ca hát, uống rượu và tránh làm những điều gở. Tôi được huấn luyện ở Dashki để trở thành 1 lái xe. Mẹ và vợ tôi đã đến thăm tôi ở đó. Các vị chỉ huy rất tốt và chấp thuận cho tôi đi nghỉ phép. Tôi đã có 6 ngày phép.
"Khi chúng tôi được đưa đến sát mặt trận thì thấy sợ. Tôi cảm thấy ổn hơn ngay khi trận đánh bắt đầu. Tôi xung trận như người ta vào việc, trong 1 nhà máy chẳng hạn. Mới đầu thì kinh thật, nhưng giờ tôi chẳng còn sợ những viên đạn nữa. Phải là 1 quả đạn cối hay bom mới quật ngã được tôi. Tôi cũng đã tham gia 1 cuộc tấn công giáp lá cà bằng lưỡi lê nhưng bọn Đức ko chờ đợi điều đó. Chúng tôi hét "Ura!" và chúng bật dậy bỏ chạy.
"Thật tốt nếu có được 1 đồng đội vui nhộn, anh ta khơi mào những cuộc trò chuyện hoặc hát hỏng theo cách rất buồn cười.
"Khẩu súng trường này là vũ khí cá nhân của tôi, nó ko bao giờ làm tôi thất vọng. Tôi đã đánh rơi nó xuống bùn ở Bogdukhanovka. Tôi nghĩ nó sẽ hỏng mất, nhưng ko, ơn Chúa, nó vẫn hoạt động được.
"Giờ tôi đã bớt thấy nhớ nhà, chỉ có điều tôi muốn thấy mặt lũ con, nhất là đứa út. Tôi chưa bao giờ gặp lại chúng. Thực ra thì tôi cũng nhớ quê, tôi có 1 người bạn, Selidov, chung tôi đã nhập ngũ và chiến đấu bên nhau từ ngày đầu.
"Chúng tôi đã hành quân 50km trong đúng 1 ngày. Điều này ko quá khó khi chân cẳng mọi người đều tốt.
"Túi đồ cá nhân của tôi: trước hết là ít bánh mì để ăn, 1 quyển sổ, 1 bộ đồ lót, xà cạp dự trữ. Chúng tôi kiếm được 1 ít chiến lợi phẩm ở Petrishchevo. Có đủ thứ, đủ cho thậm chí cả đến đời cháu chắt tôi, nhưng tôi chẳng lấy gì. Tôi cần chúng làm gì? Dù sao thì tôi cũng sẽ bị giết thôi. Tôi đã có thể chọn lấy hàng tá đồng hồ đeo tay ấy chứ. Điều đó có thể là do bản tính của tôi, tôi cảm thấy ghê tởm khi phải chạm vào những thứ tư trang của quân địch. Các đồng đội sẵn sàng sờ vào chúng nhưng cá nhân tôi sợ cầm đến những thứ đó.
"Những cỗ xe tăng địch áh? Sao cơ? Tất nhiên tôi đã nhìn thấy chúng.
"Trận chiến mặt đối mặt. 1 tên Đức làm tôi bị thương và tôi giết hắn. Hắn đã nhảy vọt tới và tôi nghĩ tôi muốn để hắn sống nên hô: "Halt!" (Giơ tay lên - Maseo) Hắn bắn vào tôi làm tôi bị thương ở tay. Tôi ngắm bắn, hắn ngã xuống. 1 phụ nữ mang cho tôi 1 nồi sành đầy sữa. Tôi dùng nốt chỗ băng cá nhân để băng vai cho 1 cậu bé bị thương.
"Đừng bao giờ bỏ chạy dưới hoả lực súng cối. Nếu bạn bỏ chạy, đó sẽ là dấu chấm hết cho bạn! Khi 1 tên địch bắn bạn bằng súng máy, hắn thường ko bắn chính xác cho lắm. Bạn có thể nằm xuống rồi chạy tới 1 vị trí khác. Khi hắn ngừng, xông lên! Nếu bạn bỏ chạy hắn sẽ hạ bạn!
"Máy bay áh, bạn có thể làm gì àh? Tất cả sẽ tản ra. Nhưng pháo kích bằng súng cối thì tôi thấy thật đáng sợ, đó là vũ khí hiệu quả nhất của địch.
"Hồi còn ở nhà tôi đã từng sợ cả tiếng cót két phát ra từ bản lề cửa, còn bây giờ tôi chẳng sợ gì nữa. Ở Petrishchevo, tôi đã hạ 1 tên lính súng máy Đức khiến hắn lộn từ trên mái nhà xuống. Chúng tôi đang xông lên thì phải nằm xuống. Tôi thấy rất lạnh và phải giãy giãy đôi chân. Aiiee, aiiee, tôi chết cóng mất. Tôi ngắm bắn bằng khẩu súng trường. Hắn câm họng tức thì. Sau đó tôi kiểm tra lại thì thấy viên đạn găm đúng chân mày hắn. Tôi đã hạ được độ 15 tên địch.
"Thời tiết thực sự tốt để xung trận ở Morozovka. Địch đang rút lui và quân ta đang truy kích. Tôi có phải là kẻ đến xâm lược chúng đâu? Chúng tôi đang chiến đấu trên quê hương mình.
"Đã nghe nhiều về dân địa phương chưa, thật là 1 lũ bần tiện, ai mà tha thứ cho họ được cơ chứ? 1 phụ nữ đã hỏi xin và tôi đưa cho bà ta kim chỉ của tôi. Trong 1 trận đánh tôi bị mất dây buộc áo khoác, tôi còn giữ 1 cái sơ cua nhưng chẳng có gì để khâu nó lại trong khi trong túi vẫn còn đầy cúc áo.
"Chốt hạ là quân ta sẽ đi đến chiến thắng, chỉ là tôi ko biết bằng cách nào. Địch đã ko thắng được dạo mùa hè phải ko? Chúng là những chiến binh giỏi, nhưng hèn.
"Anh biết ko, tôi đã từng bị thương ở chỗ khó nói, và tôi sợ sẽ có điều gì đó mất mát khi trở về với vợ. Bác sĩ khám cho tôi và bảo: "Thằng khốn này may nhá! Mọi thứ vẫn ổn!"
"Thật tốt nếu xung trận vào lúc bình minh. Nó giống như lúc bạn đi làm vậy. Trời còn hơi tối nhưng mọi người vẫn nhìn rõ mọi thứ nhờ những viên đạn vạch đường, và đến khi quân ta xông vào làng thì trời đã sáng rõ.
"Tôi đã mất sự thèm muốn phụ nữ. Ah, nhưng tôi thích ngắm những đứa bé, dù chỉ 1 ngày, và sau đó tôi sẽ lại chiến đấu cho đến ngày cuối cùng.
"Hồi còn ở làng chúng tôi có khi phải lao động nặng nhọc còn hơn ở đây. Chỉ khi có thử thách gay go nào đó thì cuộc sống mới khó khăn hơn hồi ở làng. Ở đây tôi đã trở thành 1 kẻ to mồm. Ai cũng phải ngủ trong tiếng đại bác và cối bắn. Ai cũng có thể ngáy ngay trên mặt đất, giữa bãi chiến trường. Tôi đã phải chịu cái rét ghê người của mùa đông năm nay.
"1 người lính có những nghĩa vụ đạo đức: ai cũng từng phải lôi ko chỉ người bị thương mà cả người chết trong trận đánh. Khi tôi bị điếc tai trong 1 trận đánh, 1 anh lính đồng đội đã tới giúp tôi và dẫn tôi ra khỏi chỗ đánh nhau.
"Những viên đạn ko trúng được vào những người dũng cảm," Kanaev nói. Tất cả những người khác đã nằm xuống, nhưng anh ta vẫn đứng. "Hỡi các binh sĩ, theo tôi!" Ở gần Bogodukhov anh ta đã dẫn đầu 1 đội xung phong. Anh ta ko phải người hèn. "Đừng lo, đồng chí chính uỷ!" Anh ta kêu lên. "Chúng tôi ko có ai bị thương."
Đối chiếu với những gì Đại uý Kozlov nói:
"Cần phải rất can đảm để ngắm và bắn trong 1 trận đánh. 60% quân ta chưa từng bắn phát nào trong các trận đánh (*). Chúng tôi chiến đấu nhưng phải cảm ơn những tay đại liên, tiểu đoàn cối và sự can đảm của vài người đơn lẻ. Tôi đề nghị làm sạch những khẩu súng trường trước mỗi trận đánh và kiểm tra lại sau đó. Nếu ai ko bắn - hắn được xem như đào ngũ.
"Tôi ko ngại phải nói rằng chúng tôi chưa từng tham chiến 1 trận giáp lá cà bằng lưỡi lê vào. Chỉ nhìn là biết, chúng tôi làm gì có lưỡi lê. Thực tế tôi sợ mùa xuân hơn. Bọn Đức có thể sẽ bắt đầu thử tấn công lại khi thời tiết ấm lên."
Nỗi lo sợ của Đại uý Kozlov là rất thực tế. Hitler đang chuẩn bị 1 cuộc tổng tấn công về phía nam nhằm chiếm vùng dầu mỏ Caucasus, trong khi đó Stalin lại tin rằng Wehrmacht sẽ tấn công Moscow lần nữa. Cuộc tấn công hè 1942 của quân Đức, vì sự cố chấp mù quáng của Hitler, đã dẫn tới trận chiến Stalingrad.
(*) Việc Kozlov tin rằng phần lớn binh sĩ ko hề bắn trong mỗi trận đánh cũng giống với học thuyết gây tranh cãi "tỷ lệ bắn" của Thống chế S. L. A. Marshall trình bày trong cuốn "Men Against Fire" (1947). Marshall cho rằng từ 75% đến 85% binh sĩ trong trận chiến ko hề sử dụng vũ khí của mình để bắn vào đối phương. Các căn cứ trong nghiên cứu của Marshall đã bị Giáo sư Roger Spiller nghi ngờ trong 1 bài báo ấn hành vào mùa đông năm 1988 trên tờ RUSI Journal, nhưng cơ bản học thuyết này có lẽ vẫn rất đúng.
MƯỜI HAI
"SỰ THẬT TÀN NHẪN CỦA CHIẾN TRANH"
Vasily Grossman viết cho cha đầu tháng 3 về hiệu ứng mất phương hướng trong mùa đông thời chiến.
Đôi khi con có cảm giác mình đã mất quá nhiều thời gian đi loanh quanh trên những chiếc xe tải, ngủ trong chuồng gia súc hoặc những ngôi nhà cháy dở, như thể con chưa từng sống kiểu sống nào khác thế này. Hay kiểu sống khác đó chỉ là 1 giấc mơ? Con đã đi liên miên suốt mùa đông, đã nhìn thấy quá nhiều thứ đủ cho cả 1 đời người. Con đã trở thành 1 người lính thực thụ. Con biết chắc giọng nói đã trở nên khàn đục vì makhorka và cái lạnh, và vì 1 số lý do tóc trên thái dương bên phải của con đã bạc trắng.
Hôm sau ông lại viết.
Mùa đông đã trở lại nơi chúng con đang ở, cái lạnh thật khốc liệt ... Và con thèm được sưởi ấm dưới ánh nắng. Con phát mệt vì cứ phải lấy tay sờ hết mũi đến tai để xem chúng có còn ở chỗ cũ ko hay rụng mất rồi. Mặt khác con đã sụt được 16kg, đó là điều rất tốt. Cha có nhớ cái bụng béo ị của con ko?
Trong chuyến trở về Moscow đầu tháng 4, Grossman tới gặp Ortenberg. Ortenberg viết về cuộc nói chuyện giữa 2 người ko lâu sau đó. "Vasily Grossman tới gặp tôi và nói ko rào trước đón sau: "Tôi muốn viết 1 cuốn tiểu thuyết." Anh ta thông báo luôn trước khi tôi có cơ hội trả lời: "Tôi sẽ cần 2 tháng nghỉ phép để viết nó." Tôi ko có gì lo lắng với yêu cầu của anh ta, dù rõ ràng là anh ta chờ đợi điều đó. Lúc này đang là quãng thời gian tạm lắng ở mặt trận và tôi chấp thuận yêu cầu của anh." Grossman viết cho cha mình ngay sau đó.
Con đã được cho nghỉ 2 tháng để làm công việc sáng tạo, từ 10/4 đến 10/6. Con đang sướng điên người, cảm thấy mình chỉ giống như 1 cậu học trò. Chuyến trở về Moscow lần này gây cho con ấn tượng mạnh - thành phố, những phố xá và quảng trường, tất cả chúng giống như khuôn mặt những người bạn thân quen.
Con đã làm vài việc để nâng cao năng lực tài chính của mình: Con đã ký hợp đồng với 1 nhà xuất bản cho cuốn sách nhỏ về những câu chuyện ngắn và bài viết ngoài mặt trận của con. Hôm nay con sẽ gửi cha ít tiền ... Căn hộ của con thật lạnh lẽo. Zhenni Genrikhovna đã quá yếu.
Con ko đi bất cứ đâu trong thời gian lưu lại đây. Tổng biên tập đã chất cả đống việc lên người con và con ngồi làm việc cả ngày lẫn đêm. Thực ra điều đó cũng ko tệ lắm vì những người ở ban biên tập khá nồng hậu, họ đã mời con ăn kasha tại đó. Con đã trở nên rất dị ứng với thức ăn ngoài mặt trận.
Con sẽ viết 1 cuốn tiểu thuyết trong thời gian lưu lại Chistopol. Con đang ko được khoẻ cho lắm, quá mệt mỏi và ho nhiều. Con bị cóng khi bay qua mặt trận trên 1 chiếc máy bay mở toang cửa.
Grossman đã ko phung phí chút thời gian nào để bố trí chuyến đi tới Chistopol. Ở đó dù lại được sống bên vợ, ông vẫn làm việc nhiều giờ mỗi ngày để viết cuốn tiểu thuyết về năm 1941 thảm hoạ, cuốn sách mà ông quyết định lấy tên là "Nhân dân bất diệt". Cuốn sách rút tỉa từ những ghi chép ngoài mặt trận của ông đã cực kỳ thành công với độc giả là những người lính Hồng quân. Grossman, 1 trí thức Do Thái đến từ 1 thế giới khác, đã ko chỉ chứng minh lòng can đảm của mình ngoài mặt trận mà trên tất cả là tính chính xác và lóng nhân ái trong những quan sát của ông. Mặc dù chưa hoàn thành toàn bộ công việc viết sách vất vả đó, Grossman đã nóng lòng trở lại mặt trận. Thực tế ông đã viết cho cha từ Chistopol ngày 15/5 rằng ông sẽ đi trong tuần đầu tiên của tháng 6.
Chiến sự lại bắt đầu ngoài mặt trận, con nghe radio suốt. Mặt trận là nơi có câu trả lời cho mọi câu hỏi và mọi số phận.
3 ngày trước đó, Nguyên soái Timoshenko đã mở cuộc tấn công với 640.000 quân vào mấu lồi Barvenkovo ở phía nam Kharkov. Cuộc tấn công này đã trở thành thảm hoạ. Lúc này Cụm Tập đoàn quân Nam của Wehrmacht đang chuẩn bị mở Chiến dịch Fridericus, bước đệm cho cuộc tổng tấn công mùa hè mang tên Chiến dịch Blue nhằm mục tiêu là Stalingrad và hướng tới Caucasus. Kết quả là cuộc tấn công thiếu sáng tạo của quân Soviet đã đẩy bản thân họ vào vị trí giữa cái búa là Tập đoàn quân Thiết giáp 1 của Kleist và cái đe là Tập đoàn quân 6 của tướng Paulus. 2 Tập đoàn quân Soviet đã bị bao vây tiêu diệt gần như hoàn toàn trong có hơn 1 tuần. Quân Đức bắt sống gần 250.000 tù binh. Khao khát được ra mặt trận của Grossman xuất hiện nhanh và cũng tan biến nhanh chóng, ông quay lại với công việc viết tiểu thuyết.
Ở đây con đang rất tập trung vào công việc (ông viết cho cha ngày 31/5). Hình như con chưa bao giờ làm việc chăm chỉ đến thế trong đời ... Hôm kia con đã đọc cho Aseev nghe những gì con viết và anh ấy rất thích nó.
Đáng tiếc là hạn phép của con sắp hết, con đang rất mệt, con đã vắt kiệt bản thân cho công việc viết lách. Tuy nhiên hoàn toàn bất ngờ, con đã nhận được 1 bức điện cực kỳ hào phóng từ tay Tổng biên tập độc ác của con, ông ta viết rằng ông ta ko phiền nếu con kéo dài thời gian nghỉ phép để tiếp tục công việc tại Chistopol. Với sự cho phép này hầu như chắc chắn con sẽ ở lại đây thêm 7 - 10 ngày so với hạn phép. Con đang viết về cuộc chiến trong giai đoạn từ mùa hè đến mùa thu năm 1941.
1 điều khác nữa là con đang rất khổ sở vì thiếu tiền ... con đã viết thư gửi về Moscow cho tất cả các nhà xuất bản của con, nhưng chưa 1 ai trong lũ chó má đó gửi cho con dù chỉ 1 kopeck (xu - Maseo)
Con thường nghĩ tới Katyusha. Con rất muốn nhìn thấy nó ... chắc giờ nó lớn lắm rồi. Con đã nhận được 2 bức thư của nó và qua những bức thư đó con cảm thấy nó ko nhớ con lắm; chúng đúng là những bức thư lạnh lùng.
Nhiều đêm con ngồi dưới gốc cây táo, lúc này nó đang trổ hoa, và nhìn những ô cửa sổ sáng đèn của những ngôi nhà. Chúng thật bình yên. Điều đó làm con ngạc nhiên. 1 viên tướng tên là Ignatiev từng nói phóng viên là những người dũng cảm nhất trong chiến tranh vì họ phải rời hậu phương để ra mặt trận rất nhiều lần, đó là khoảnh khắc khó chịu nhất, lúc mà 1 con sơn ca biến thành 1 cái máy bay.
Con nhận được 1 tầm card từ Uỷ ban Di tản nói rằng Mẹ ko nằm trong danh sách những người đã được sơ tán. Con đã biết trước rằng Mẹ ko thoát được nhưng trái tim con vẫn co lại khi đọc những dòng chữ đó.
Cuối cùng thì Grossman đã ko cần đến thời gian kéo dài phép mà Ortenberg đã chấp thuận cho ông. Ông giao bản thảo ngày 11/6 và viết cho cha ngày hôm sau:
Mọi thứ có vẻ ổn với cuốn tiểu thuyết của con. Tổng biên tập đọc nó hôm qua và nhiệt liệt tán thưởng. Đêm qua ông ấy gọi con đến và ôm chặt lấy con. Ông ấy nói rất nhiều những lời tán dương và hứa sẽ đăng trên tờ Krasnaya Zvezda mà ko cắt cúp gì hết. Cuốn tiểu thuyết này rất dài ... con đang lo ko hiểu người đọc sẽ tiếp nhận nó như thế nào ... Dù sao, việc xuất bản cuốn tiểu thuyết sẽ làm khả năng tài chính của con tăng tiến vượt bậc. Con hy vọng cha sẽ có thể tự đọc nó trong tương lai gần. Con rất vui nếu được như vậy. Cha phải cố tăng cân đi chứ gầy quá rồi đấy, ông già khốn khổ ạh.
Cùng lúc đó, Grossman viết cho vợ ở Chistopol những điều đã nói trong bức thư gửi cha nhưng kèm thêm vẻ hãnh diện:
Giờ anh đã là cây đinh của ban biên tập. Tổng biên tập cho gọi anh lên cả chục lần mỗi ngày. Anh ngủ ngay tại cơ quan, đọc các bản in thử từ 2 - 3h sáng.
Ortenberg cũng viết: "Sau đúng 2 tháng, Vasily Semyonovich giao cho tôi cuốn "Nhân dân bất diệt", 1 bản thảo dày khoảng 200 trang. Tôi đọc nó, ko còn lời gì để nói, tôi đọc mà ko thể đặt nó xuống được. Ko 1 tác phẩm nào thuộc thể loại này được viết kể từ khi chiến tranh bắt đầu. Tôi quyết định đăng tải nó ko chậm trễ. Chương đầu tiên được đưa cho người sắp chữ. Khi 1 trang gồm 3 cột đã sẵn sàng, tôi bắt đầu đọc bản in thử. Grossman đứng cạnh tôi theo dõi từng cử động với vẻ ganh tị. Anh ta sợ tôi có thể sẽ sửa chữa những đoạn ko cần thiết.
Ngày 14/7, Grossman viết cho cha trong tâm trạng hết sức kích động:
Krasnaya Zvezda đã bắt đầu đăng dài kỳ cuốn tiểu thuyết của con ... con gửi điện chuyển tiền cho cha 400 rúp từ hôm kia! Con sẽ ở Moscow thêm 3 tuần hoặc 1 tháng, đó là thời gian cuốn tiểu thuyết của con sẽ được đăng nhiều kỳ trên báo.
Ngày 12/8, Ortenberg viết: "Hôm nay chúng tôi đăng chương cuối cùng cuốn tiểu thuyết "Nhân dân bất diệt" của Vasily Grossman. Cuốn truyện đã được đăng suốt 18 số báo và cứ sau mỗi số sự thích thú của độc giả lại tăng lên. Trong 18 ngày đó, thực ra là đêm, tôi đứng với tác giả tại bàn mình để đọc bản in thử từng chương sách sẽ được xuất bản tiếp theo. Ko có mâu thuẫn vào với Vasily Semyonovich. Chỉ đến khi kết thúc cuốn tiểu thuyết mới nổ ra cuộc tranh luận gay gắt vì lý do nhân vật chính, I. Babadzhanyan, bị giết. Khi tôi đọc bản thảo và khi đọc bản in thử chương cuối, tôi đã hỏi tác giả chẳng lẽ ko thể cải tử hoàn sinh cho nhân vật chính, người đã được độc giả hết sức yêu mến àh? Vasily Semyonovich trả lời: "Tôi phải căn cứ theo sự thật tàn nhẫn của chiến tranh."
Thực tế, Grossman đã đối mặt với vấn đề hết sức tế nhị, điều mà tất cả các tiểu thuyết gia đều ngại, thậm chí gần như ko bao giờ làm, là để nhân vật chính trong tiểu thuyết giữ đúng tên nguyên mẫu. Babadzhanyan ko hề bị giết như Grossman nói, nhưng người trong tương lai sẽ trở thành vị tướng xe tăng này đã tha thứ cho anh chàng tiểu thuyết gia vụ bịa ra cái chết của ông.
Trong khi đó ở Moscow, chỉ có rất ít người có vẻ đã để ý đến mối nguy đang xuất hiện ở phía nam khi các tập đoàn quân của Hitler tiến đến sông Đông và hướng thẳng về Caucasus. Bức thư của Grossman gửi vợ ngày 22/7 cho thấy ngay cả những người vừa có mặt tại khu vực đó trở về Moscow cũng chưa để ý đến nguy cơ.
Hôm qua Kostya Bukovsky trở về từ Stalingrad bằng đường ko, và anh đã tổ chức 1 "lễ đón tiếp". Bọn anh uống và ca hát ... Tvarkovsky đọc 1 chương tuyệt vời trong tác phẩm mới của anh ta, "Vasily Tyorkin". Mọi người đã rơi nước mắt. (*)
Chỉ 3 tuần sau, ngày 19/8, Grossman viết cho cha như sau:
Con sẽ ra mặt trận trong vài ngày nữa. Chắc cha sẽ rất vui nếu nhìn thấy con được Hồng quân chào đón thế nào sau khi xuất bản cuốn tiểu thuyết. Lạy Chúa, con rất tự hào về bản thân và rất xúc động. Cuốn tiểu thuyết đã được đánh giá tốt ở mọi cấp độ, từ cấp cao nhất trong quân đội đến những người lính trơn. Cha thân yêu, tâm trạng con đang tốt hơn bao giờ hết. Con đã thành công và được thừa nhận, nhưng vẫn có 1 cảm giác hết sức, hết sức nặng nề sâu trong tâm hồn. Ước muốn lớn nhất của con là giúp đỡ được tất cả những người con yêu quý, để mọi người được đoàn tụ. Con luôn bị dằn vặt với suy nghĩ về số phận của Mẹ ...
Con đã nhận được 1 bức thư của Yura, con trai Vadya. Nó đang ở mặt trận, là 1 trung uý. Nó đã đánh nhiều trận và đã từng bị thương.
Em họ của Grossman, Yura Benash, cũng sắp được chuyển tới Stalingrad, nơi Grossman cũng đang hướng tới.
(*)Tvardovsky được biết đến nhiều nhất với tác phẩm "Vasily Tyorkin", câu chuyện kể về 1 người lính nông dân lạc quan đã luôn luôn tìm được cách để sống sót. Nhân vật hư cấu này bắt đầu xuất hiện trong các bài báo của Tvardovsky suốt từ thời chiến tranh Xô - Phần và trở thành người anh hùng dân gian trong cuộc Chiến tranh Vệ quốc Vĩ đại, nhờ đó Tvardovsky đã thêm 1 lần nữa nhận Giải thưởng Stalin năm 1946.
MƯỜI BA
ĐƯỜNG TỚI STALINGRAD
Trong khi Grossman vẫn còn đang viết dở cuốn "Nhân dân bất diệt", Bộ tổng tham mưu Đức đã chuẩn bị các kế hoạch cho cuộc tổng tấn công mùa hè của Hitler, Chiến dịch Blue. Trong bản kế hoạch gần giống như việc mở lại Chiến dịch Barbarossa này, Hitler tính sẽ hướng về phía Caucasus để chiếm vựa dầu ở đó. Hắn cho rằng việc kiểm soát nguồn dầu mỏ sẽ cho phép hắn cự nhau được với "Tam Cường" (Mỹ, Nga, Anh - Maseo) giờ đều đã đứng về phe đối địch. Tuy nhiên vào ngày 12/5, 6 ngày trước khi cuộc tấn công của quân Đức dự kiến sẽ bắt đầu, Nguyên soái Timoshenko đã mở chiến dịch tấn công vào nam Kharkov như đã nói trong chương trước. Stavka (Tổng hành dinh - Bộ chỉ huy tối cao Nga) hy vọng sẽ tái chiếm được thành phố. Cuộc tấn công của quân đội Soviet tuy thế đã thất bại thảm hại. Quân Đức đang tập trung với số lượng lớn tại khu vực này đã phản ứng nhanh chóng với tình hình mới dẫn tới 1 thảm hoạ khác là cuộc bao vây 5 ngày sau đó khi Tập đoàn quân 6 Đức của Tướng Paulus khép miệng túi trong đó có hơn 3 Tập đoàn quân Soviet. Tin tức về thảm hoạ này đã gây shock, đặc biệt là với Grossman, ông đã ở khu vực này trong 1 thời gian dài và đã từng gặp nhiều người có tham gia vào trận đại bại này.
1 kết quả tuy ngoài lề nhưng quan trọng của trận đánh này là đòn đánh chính của Chiến dịch Blue bị hoãn lại đến cuối tháng 6. Các sĩ quan tham mưu Đức cùng toàn bộ các bản kế hoạch về cuộc tấn công xuống phía nam đã bị bắn hạ vì viên phi công chở họ lạc hướng sang vùng do quân Soviet kiểm soát. Nhưng Stalin ko chịu tin vào các chứng cứ thu được, ông nghĩ rằng đó chỉ là 1 trò lừa đảo, giống như ông đã từng ko tin vào các lời cảnh báo trước Chiến dịch Barbarossa. Stalin cho rằng Hitler sẽ 1 lần nữa đánh thẳng vào Moscow. Tuy nhiên điều này diễn ra ko lâu trước khi Stalin nhận thức được sự cố chấp của mình dẫn tới cái gì. Các Phương diện quân Tây Nam và Nam của Timoshenko vừa phải nhận 1 đòn nặng nề gần Kharkov đã rút lui 1 cách thiếu tổ chức. Tập đoàn quân 6 của Paulus đã đánh vào chỗ có khúc ngoặt lớn của sông Đông, đồng thời 3 Tập đoàn quân khác - Thiết giáp 1, Thiết giáp 4 và Tập đoàn quân 17 Đức - áp sát vùng hạ lưu sông Đông để tiến về Caucasus.
Stalin bắt đầu hoảng. Ngày 19/7 ông lệnh cho Uỷ ban phòng thủ Stalingrad lập tức chuẩn bị sẵn sàng chiến đấu cho thành phố. Thật ko thể tưởng tượng được là quân Đức có thể tới sông Volga, tấn công vào thành phố mang tên mình, nơi ông đã được ủng hộ và đánh bóng tên tuổi nhờ lãnh đạo cuộc phòng thủ thành phố trong thời Nội chiến, khi đó thành phố có tên cũ là Tsaritsyn.
Trong khi đó Hitler bắt đầu can thiệp vào việc lập kế hoạch của Bộ Tổng tham mưu Đức. Theo cách thông thường, nhiệm vụ của Tập đoàn quân 6 của Paulus là tiến thẳng về Stalingrad, nhưng ko chiếm nó. Kế hoạch này chỉ đơn thuần nhằm mục đích bảo vệ cánh trái dọc theo sông Volga của Chiến dịch Blue trong khi mũi nhọn chính nhằm về phía nam tới Caucasus. Nhưng kế hoạch này đã nhanh chóng bị thay đổi, Tập đoàn quân 6 được 1 phần Tập đoàn quân 4 Thiết giáp hỗ trợ phải chuyển hướng khỏi Caucasus để thực hiện mệnh lệnh đánh chiếm thành phố mang tên Stalin.
Ngày 28/7, ngay sau khi quân Đức chiếm Rostov và 3 tập đoàn quân Đức vượt sông Đông hướng về Caucasus, Stalin ra mệnh lệnh nổi tiếng số 227, thường được biết với tên Mệnh lệnh "Ko lùi 1 bước". Bất cứ ai rút lui mà ko có lệnh hoặc đầu hàng sẽ bị coi là "phản bội Tổ quốc". Con gái của Grossman sau này nghe được cuộc tranh cãi sau giữa các biên tập viên của tờ Krasnaya Zvezda. "Khi mệnh lệnh nổi tiếng được ban hành cho phép xử bắn ngay tại trận, Ortenberg nói với cha tôi, Pavlenko và Aleksei Tolstoy (*), 3 người lúc đó đều tình cờ có mặt tại Ban biên tập: "Ai trong các anh có thể viết 1 câu chuyện về đề tài này?" Cha tôi trả lời ngay ko suy nghĩ: "Tôi sẽ ko viết bất cứ cái gì theo kiểu đó." Điều này làm Pavlenko điên tiết, ông ta vặn vẹo người, rít lên như 1 con rắn mà nói: "Anh là đồ ngạo mạn, Vasily Semyonovich ạh, đúng là đồ kiêu căng!" Nhưng Tolstoy, người đã chỉ đứng đó mà ko tham gia vào cuộc cãi vã, đã nhanh chóng viết 1 câu chuyện về 1 tên phản bội chó má, hắn đã bỏ chạy khỏi Hồng quân, trốn vào 1 ngôi nhà và giết những đứa trẻ trong đó."
(*) Aleksei Nikolaevich Tolstoy (1882 - 1945), nhà văn và nhà viết kịch, có họ với Leo Tolstoy nhưng xa lạ với việc ỷ lại vào danh tiếng gia đình. Ông đi theo cách mạng từ trước WW1, đến năm 1923 mới trở về Liên Xô sau khi được giới chức Soviet tâng bốc và đảm bảo về mặt chính trị. Tác phẩm lớn nhất của ông là Sử thi Peter I (Piốt Đại đế), ông cũng viết tiểu thuyết khoa học viễn tưởng. Sự nghiệp và tính mạng của ông vẫn được đảm bảo trong thời kỳ Đại Khủng bố năm 1938 nhờ cuốn tiểu thuyết hèn hạ "Khleb" ca ngợi Stalin trong cuộc phòng thủ Tsaritsyn thời Nội chiến, thành phố sau này đổi tên thành Stalingrad. Trong thời gian chiến tranh ông viết cuốn "Ivan Grozny" với 2 phần cùng nhiều "bài viết yêu nước" như bài viết kể trên.
Cuộc rút lui của các tập đoàn quân Soviet diễn ra trong hỗn loạn. Hàng nghìn mạng sống đã bị phung phí trong những cuộc phản công vô ích. Nhiều người bị vây bên bờ sông Đông, 60km về phía tây Stalingrad, đã chết đuối khi cố thoát ra. Grossman sau đó phỏng vấn nhiều người đã có mặt trong thảm hoạ.
Đây là 1 ghi chép của Grossman thu được từ cuộc phỏng vấn Vassily Georgevich Kuliev, 1 phóng viên quân đội 28 tuổi, từng là Đoàn viên Komsomol phụ trách Đội Thiếu niên Tiền phong, anh này đã tự chỉ định mình làm chính trị viên của 1 nhóm.
Chúng tôi rút lui khỏi chiến trường dưới hỏa lực cối và súng máy. Đến trang trại Markovsky, chúng tôi nằm dán mình dưới 1 con hào dưới hoả lực khủng khiếp và sau đó luồn qua vòng vây. Tôi tự chỉ định mình làm chính trị viên 1 nhóm 18 người. Chúng tôi nằm trên 1 cánh đồng lúa mì. Bọn Đức xuất hiện, 1 tên tóc đỏ quát: "Rus, uk vekh!" (*) Chúng tôi nã mấy loạt tiểu liên làm 4 tên Đức ngã lộn từ trên ngựa xuống rồi đánh ra, sử dụng 1 khẩu tiểu liên và 1 khẩu súng máy. Có khoảng 25 tên Đức, 16 trong số 18 người chúng tôi đã thoát được.
Đêm xuống, chúng tôi đi bộ qua cánh đồng lúa mì. Lúa đã chín rục và kêu sột soạt khiến bọn Đức nã súng máy về phía chúng tôi ... Sau đó tôi tập hợp 16 người lại và dùng la bàn định hướng tránh các con đường và làng mạc trên đường. Chúng tôi đã mất 1 đêm nằm trên bờ cao sông Đông (**). Chúng tôi buộc chăn lại với nhau làm 1 sợi thừng để kéo những người bị thương qua sông, nhưng nó ko đủ dài. Tôi đề nghị cả bọn bơi qua sông. Chúng tôi bỏ tất cả giấy tờ vào trong mũ và đạn vào 1 cái túi. Tôi đã bị đuối sức khi bơi được nửa đường và phải bỏ cái túi còn cuốn sổ ghi chép để trong mũ thì vẫn giữ được."
Quân Đức trước hết quét sạch các binh sĩ Soviet còn trên bờ tây sông Đông, sau đó tướng Paulus tái bố trí đội hình để chuẩn bị cho bước tiến tiếp theo. Sáng sớm ngày 21/8, bộ binh Đức dùng xuồng xung phong vượt sông Đông và chiếm nhiều đầu cầu trên bờ đông. Công binh nhanh chóng vào việc và đến trưa hôm sau nhiều cầu phao cho phép xe tăng đi qua đã được bắc qua "Sông Đông êm đềm". Các đơn vị thiết giáp nhanh chóng vượt sông lấp đầy đầu cầu.
Chủ nhật 23/8/1942, Sư 16 Thiết giáp Đức dẫn đầu cuộc tấn công xuyên qua thảo nguyên và tới được sông Volga sát phía bắc Stalingrad chiều tối cùng ngày. Trên đầu, các máy bay ném bom của Hạm đội Ko quân 4 do tướng Wolfram von Richthofen chỉ huy nghiêng cánh chào các lực lượng dưới mặt đất. Phía sau những chiếc máy bay là Stalingrad đổ nát dưới những trận bom rải thảm chia làm nhiều đợt. Trong ngày hôm đó và 3 ngày tiếp theo, khoảng 40.000 thường dân được cho biết là đã chết trong thành phố bị đốt cháy.
Hôm đó cũng là ngày Grossman theo lệnh của Ortenberg rời thủ đô Soviet tới Stalingrad để thông tin về trận chiến đang đến gần.
Tôi rời Moscow bằng ô tô ngày 23/8. Thợ máy trưởng của garage ban biên tập đã bỏ nhiều thời gian chuẩn bị cho cỗ xe của chúng tôi vượt quãng đường cả nghìn km từ Moscow tới Stalingrad. Tuy nhiên, khi vừa rời khỏi Moscow được 3 km chúng tôi đã phải dừng lại. Cả 4 bánh xe đều xì hơi cùng lúc. Trong khi lái xe Burakov tỏ ra rất ngạc nhiên vì sự cố này và bắt đầu vá lốp 1 cách chậm rãi, cánh phóng viên chúng tôi tiến hành phỏng vấn người dân địa phương thuộc khu vực Moscow. Thật ra là 1 cô gái đang đứng bên đường. Cô ta có khuôn mặt rám nắng, mũi khoằm và đôi mắt xanh tinh nghịch.
"Em có thích các đại tá ko?"
"Sao tôi phải thích các vị đó?"
"Thế các trung uý với những khối vuông trên cầu vai thì sao?"
"Các trung uý ko phải loại ưa thích của tôi. Tôi chỉ thích các chú lính trơn."
Mặc dù chuyến nam du rất gấp gáp, Grossman vẫn ko quên ghé thăm điền trang của Leo Tolstoy, nơi lần trước ông đã tới ngay trước khi nó bị tướng Guderian chiếm hồi tháng 10 năm ngoái.
Yasnaya Polyana. 83 tên Đức đã được chôn ngay cạnh Tolstoy. Chúng đã được chôn xuống rồi lại bị quật lên vì 1 hố bom Đức. Hoa trước nhà nở thật đẹp, giờ đang là mùa hè ấm áp. Cuộc sống trông thật ngọt ngào và bình yên.
Mộ Tolstoy. Lại hoa, ong vo ve trên những cánh hoa, những chú côn trùng có cánh này lượn khắp xung quanh mộ. Và ở Yasnaya Polyana, khu vườn lớn đã chết vì giá rét, tất cả cây cối đều chết, những cây táo đứng đó xám xịt, vô tri giác, giống như những cây thập giá trên nấm mộ.
(*) Tiếng Nga bồi nói theo giọng Đức, có nghĩa là: "Bọn Nga, giơ tay lên!"
(**) Có 1 hiện tượng địa vật lý ko thể giải thích được xảy ra với các con sông lớn ở Nga chảy về hướng nam, đặc biệt là sông Volga và sông Đông, theo đó chúng có bờ tây rất cao và bờ đông bằng phẳng.
Con đường cái màu xanh xám. Những ngôi làng giờ trở thành những vương quốc của đàn bà. Họ lái máy kéo, gác kho và chuồng ngựa, xếp hàng mua vodka. Những cô gái ngà ngà say hát ông ổng - họ đang ngắm 1 người bạn gái sắp rời làng đi lính. Những người phụ nữ mang trên vai toàn bộ gánh nặng công việc. Họ đang nắm giữ 1 khối lượng công việc khổng lồ và gửi bánh mì, máy bay, vũ khí, đạn dược ra chiến trường. Họ đang nuôi sống và trang bị cho chúng tôi. Và chúng tôi, cánh đàn ông, thực hiện phần tiếp theo của công việc. Chúng tôi chiến đấu! Nhưng chúng tôi chiến đấu ko được tốt lắm. Chúng tôi đã rút về Volga. Những người phụ nữ nhìn thấy nhưng ko nói gì, ko 1 ánh mắt trách móc, ko 1 lời sỉ vả. Họ có đang nuôi mối bất bình ko? Hay họ hiểu rõ gánh nặng chiến tranh, thậm chí là 1 cuộc chiến thất bại?
Cô chủ nhà nơi chúng tôi nghỉ qua đêm là người tinh nghịch. Cô ta thích những câu đùa ngu ngốc: "Ah, giờ đang là chiến tranh," Cô nói. "Chiến tranh làm mọi thứ bị tịt." Cô nhìn Burakov hau háu, mắt láo liên. Burakov là 1 anh chàng đẹp trai. Burakov ra vẻ nghiêm trang, anh đang bối rối. Rồi cô bật cười và bắt đầu "nói chuyện như những người trong gia đình". Cô ko quan tâm đến việc đổi chút bơ lấy 1 cái áo hay mua nửa lít vodka của lính tráng.
Cô chủ nhà nơi chúng tôi nghỉ đêm tiếp theo là người sạch sẽ. Cô dị ứng với bất kỳ lời tục tĩu nào. Đêm xuống, trong bóng tối cô kể cho chúng tôi nghe 1 cách thành thật về gia đình và công việc. Cô lôi đám gà qué lên cho chúng tôi xem, cười nói về chuyện chồng con và chiến tranh. Và mọi người đều khâm phục sự trong sáng của cô tự đáy lòng.
Cuộc sống của những người phụ nữ này sẽ ra sao? Ở hậu phương và tiền tuyến là 2 thái cực, 1 bên sạch sẽ và trong sáng, bên kia thì tăm tối, thế giới của lính. "Ah, giờ đang là chiến tranh," người ta nói thế. Nhưng PPZh là tội lỗi lớn nhất đối với chúng tôi.
PPZh là tiếng lóng chỉ "vợ hờ ngoài mặt trận" do nếu nói đầy đủ nó là "pokhodno polevaya zhena", hơi giống với PPSh, loại tiểu liên tiêu chuẩn của Hồng quân. Vợ hờ có thể là những y tá trẻ hoặc nữ binh sĩ tại các sở chỉ huy - thường là điện đài viên hoặc văn thư - các cô gái này thường đội 1 chiếc mũ beret lật ra sau gáy thay vì mũ pilotka đội từ trước ra sau. Hầu như tất cả họ đều buộc phải trở thành vợ hờ của các sĩ quan cao cấp. Grossman cũng ghi nguệch ngoạc vài dòng chua chát về chủ đề này, có lẽ để dùng cho những câu chuyện sau này.
Phụ nữ - PPZh. Ghi chép về Nachakho, phụ trách hành chính của đơn vị hậu cần. Cô đã khóc cả tuần rồi đến với ông ta.
"Ai kia?"
"PPZh của tướng quân."
"Và chính uỷ cũng có 1 cô."
Trước trận đánh, lúc đó là 3h sáng.
"Tướng quân đâu?" Ai đó hỏi.
"Đang ngủ với ả cave của ông ta," lính gác thì thào.
Những cô gái đó đã từng muốn trở thành 1 "Tanya", hay Zoya Kosmodemyanskaya (*).
"Thế cô kia thì là PPZh của ai?"
"Của 1 đại biểu Hội đồng Quân sự"
Bên cạnh những cô gái đó còn hàng chục nghìn phụ nữ mặc quân phục đang làm việc hết mình mà vẫn giữ được phẩm giá.
Chuyện về 1 viên tướng đã thoát khỏi vòng vây, dắt theo 1 con dê với 1 sợi thừng. Vài sĩ quan nhận ra ông. "Ông đang đi đâu vậy, đồng chí Tướng quân?" Họ hỏi. "Thế các anh định đi đường nào?" Tướng Efimov cười với vẻ nhạo báng. "Con dê này sẽ cho tôi biết phải đi đường nào."
Krasivaya Mecha - thật là 1 nơi đẹp ko thể tả. Tiếng than khóc vang lên suốt đêm từ chỗ 1 con bò cái, trong ánh sáng xanh của vầng trăng vàng. Con bò đã ngã xuống 1 con hào chống tăng. Đám phụ nữ khóc lóc: "Thế là mất 4 đứa trẻ rồi." (**) Trong ánh trăng xanh, 1 người đàn ông đang cầm dao chọc tiết bò. Sáng ra, 1 cái vạc lớn được đun sôi sùng sục, ai nấy đều có khuôn mặt phè phỡn, mắt đỏ ngầu và mí mắt căng mọng.
(*) Zoya Kosmodemyanskaya, 1 nữ sinh 16 tuổi người Moscow, đã chiến đấu trong 1 nhóm du kích sau lưng địch tại tỉnh Tambov, lấy bí danh là "Tanya". Cô bị bọn Đức bắt, tra tấn và hành hình tại làng Petrishchevo ngày 29/11/1941. Trước khi bị chúng treo cổ trên đường làng, cô đã nói trong nước mắt: "Chúng mày sẽ ko bao giờ treo cổ hết được chúng tao. Các đồng đội sẽ trả thù cho tao." Cô được truy tặng danh hiệu Anh hùng Liên Xô. Nhiều năm sau, câu chuyện về sự anh hùng của cô bị vấy bẩn vì lời kể của những người dân địa phương trách cô đã đốt nhiều ngôi nhà theo 1 mệnh lệnh tàn nhẫn của Stalin. Mệnh lệnh này nhằm phá huỷ mọi chỗ trú ẩn để khiến bọn Đức chết rét, mặc dù những người dân thường phải chịu chung số phận còn nhiều hơn.
(**) Thực ra họ đang than vãn cho 4 đứa trẻ sẽ bị thiếu sữa.
Những người phụ nữ gày gò đầu trùm khăn đang lao động trên đường, chất đất lên những chiếc xe cút kít gỗ, san lấp những chỗ ko bằng phẳng bằng cuốc chim và xẻng.
"Các bà các cô từ đâu đến thế?" Chúng tôi hỏi.
"Chúng tôi đến từ Gomel."
"Chúng tôi đã có mặt trong trận đánh gần Gomel."
Chúng tôi nhìn nhau mà chẳng nói gì thêm, rồi lại phóng xe đi. Đây có lẽ là 1 điềm báo, cuộc gặp gỡ này diễn ra gần làng Mokraya Olkhovka, chỉ cách sông Volga có 40km. (*)
Phụ nữ trong làng. Giờ đây toàn bộ gánh nặng công việc chất hết lên lưng họ. Nyushka vẫn có vẻ cứng rắn, tinh nghịch và lả lơi. "Ah, giờ đang là chiến tranh," cô nói. "Tôi đã phục vụ 18 thằng đàn ông kể từ ngày chồng tôi ra đi. Chúng tôi có 1 con bò cái và 3 phụ nữ nhưng chỉ mình tôi vắt được sữa của nó. Nó chẳng chịu cho 2 mụ kia làm gì với nó cả." Cô cười. "Bây giờ gạ gẫm 1 phụ nữ còn dễ hơn 1 con bò." Cô ngoác miệng cười, đề nghị tặng chúng tôi tình yêu của cô theo cách thật là chân phương và dễ nghe.
Đất Mẹ chúng ta mới mênh mông làm sao. Chúng tôi đã phóng xe suốt 4 ngày. Múi giờ đã thay đổi, giờ chúng tôi đã ở múi giờ sớm hơn 1h. Thảo nguyên đã khác, những con chim cũng khác: diều hâu, cú, ưng. Đã thấy cả dưa hấu và dưa. Nhưng nỗi đau mà chúng tôi thấy ở đây cũng vẫn thế.
Làng Lebyazhye. Những ngôi nhà cao được sơn các phòng bằng sơn dầu. Chúng tôi tỉnh dậy, ko gian yên ắng, buổi sáng trời u ám, rồi có mưa. Khoảng cách từ đây tới sông Volga là 15km. Sự bình thản và yên tĩnh giả tạo của ngôi làng thật đáng sợ.
Sông Volga. Vượt sông trong tiết trời trong sáng. Con sông khổng lồ chảy chậm rãi, hùng vĩ. Nói ngắn gọn, đó là Volga. Có 1 chiếc xe trên phà chất đầy bom cho máy bay. Máy bay địch đang oanh tạc. Tiếng tạch tạch của những loạt súng máy. Và sông Volga vẫn chảy chậm rãi, vô tư lự. Những đứa trẻ vẫn đang thả câu dưới chiếc phà đang bị đạn xuyên lỗ chỗ.
Có nhiều sân bay trong khu vực này, chúng trở nên quan trọng khi trận Stalingrad diễn ra. 1 trong số chúng vốn là 1 cánh đồng trồng dưa nằm bên 1 cái chợ vẫn tiếp tục được mở, mặc cho máy bay Đức bắn phá. Liên Xô đã nhận được 1 số lượng lớn trang thiết bị chiến tranh từ Mỹ theo thoả ước Lend - Lease, bao gồm những chiếc xe Jeep Willy và máy bay Douglas DC-3 "Dakota", người Nga gọi loại máy bay này là "Duglas".
Đến nơi. Tiếng động cơ gầm rú hỗn loạn, nào Cobra, nào Yak, nào Hurricane, 1 chiếc Duglas to lớn xuất hiện, bay 1 cách nhẹ nhàng và êm ái. Đám chiến đấu cơ đang quần đảo điên cuồng đằng sau chiếc Duglas. Chiếc Duglas đang tìm chỗ hạ cánh, mọi người nhảy nhót khắp nơi. Chiếc Duglas hạ cánh, theo sau và xung quanh là đám chiến đấu cơ. Cảnh tượng thật là huy hoàng, như xem 1 cuốn phim (với hậu cảnh là thảo nguyên và sông Volga).
Lính tráng xem cảnh tượng này và bàn luận về nó. 1 người nói: "Trông chứ như đàn ong. Sao chúng nó (đám chiến đấu cơ) cứ bu vào thế nhỉ?"
"Chắc để bảo vệ ruộng dưa."
Người thứ 3 nhìn chiếc Duglas vừa mới xuất hiện nói: "Chắc hạ sĩ của đại đội ta sắp bắt kịp chúng ta."
Hành khách trên chiếc Duglas dĩ nhiên quan trọng hơn nhiều, thậm chí có thể chính là tướng Georgi Zhukov, người đã bay tới đây ngày 28/8 theo lệnh của Stalin để giám sát công cuộc phòng thủ thành phố (**). "Có vấn đề gì với họ?" Stalin quát vào telephone với tướng Aleksandr Vasilevsky, đại diện đầu tiên của Stavka tới Stalingrad (***). Ông đang rất giận dữ với các chỉ huy quân đội địa phương. "Chẳng lẽ họ ko nhận thức được rằng đây ko chỉ là thảm hoạ đối với Stalingrad? Chúng ta có thể mất con đường thuỷ quan trọng và ngay sau đó là dầu mỏ!"
Grossman nghỉ đêm cuối cùng ở Zavolzhye.
Nghỉ đêm trong nhà của bí thư RAIKOM (Tỉnh uỷ). Ông kể chuyện nông trang tập thể, chuyện những người đứng đầu nông trang đã mang lúa mạch vào sâu trong thảo nguyên và sống ở đó như những ông hoàng, xơi thịt bê, uống sữa, mua bán các kiểu. (Giá 1 con bò cái giờ lên tới 40.000 rúp.)
(*) Đây là khu vực phía tây thành phố Kamyshin trên sông Volga, cách Stalingrad 200km về phía bắc theo đường quốc lộ.
(**) Tướng (sau này là Nguyên soái) Georgi Konstantinovich Zhukov (1896 - 1974), trung sĩ kỵ binh trong WW1, bị thương ở Tsaritsyn (sau này là Stalingrad) năm 1919. Năm 1939, ông là người thắng trận Khalkin - Gol chống Nhật Bản trong cuộc chiến ở Viễn Đông. Năm 1941, Zhukov chịu trách nhiệm phòng thủ Leningrad và sau đó vạch kế hoạch cho trận Moscow.
(***) Tướng (sau này là Nguyên soái) Aleksandr Mikhailovich Vasilevsky (1895 - 1977), con trai 1 thầy tu, từng là sĩ quan quân đội Sa Hoàng trong WW1. 1 sĩ quan tham mưu sáng chói trong việc lập kế hoạch, ông thoát khỏi cuộc thanh trừng mặc dù có xuất thân tư sản. Ông là người tham mưu cho Molotov trong cuộc viếng thăm Berlin năm 1940, 1 cố gắng bảo vệ Hiệp ước Xô - Đức nhưng thất bại. Khi quân Đức tiến về Moscow, Vasilevsky tiếp bước Zhukov trở thành 1 trong những cố vấn chính của Stalin và được chỉ định làm đại diện Stavka tại những điểm nóng như Stalingrad vào cuối tháng 8/1942.
Cánh phụ nữ đang nói chuyện trong bếp căng tin RAIKOM: "Ôi tay Hitler này, hắn đúng là quỷ Satan! Thế mà chúng ta đã từng gọi mấy anh + sản là Satan." (*)
Đất đai vùng Volga (phía bờ đông) này thật bụi bậm, thảo nguyên có mầu nâu. Trong mùa thu khốn khổ này cỏ, lau lách và ngải đắng mọc tùm lum. Cỏ bò cả lên mặt đường như những con rắn. Thấy có cả chim hồng tước và lạc đà. Tiếng lạc đà kêu ầm ĩ. Mặt trời mọc xuyên qua lớp khói mù mịt màu xanh xám. 1 nửa bầu trời bị khói che phủ, khói từ Stalingrad.
Trận oanh tạc Stalingrad ngày 23/8 đã làm cháy kho xăng dầu trong nhiều ngày, tạo ra những cột khói đen có thể nhìn thấy từ rất xa.
"Máy bay Đức trên đầu ta!" Ai đó kêu lên. Mọi người vẫn ngồi yên vị.
"Nó đang quay lại!" Mọi người lao khỏi izba nhìn quanh nhớn nhác.
Ông cụ chủ izba nói: "Tôi có 4 con trai đang tham chiến và 4 con rể, 4 cháu trai nữa. 1 thằng con tôi đã hoàn thành nghĩa vụ của nó, người ta đã chuyển giấy báo tử của nó cho tôi."
Nhân dân ta mới tốt làm sao. Tôi ko hiểu sao mỗi người đều đủ sức chịu đựng gánh nặng khủng khiếp này. Những ngôi làng trống rỗng 1 cách thảm thương. Các cô gái phóng đi trên những chuyến ô tô, họ vừa đi vừa khóc, mẹ của họ cũng đang khóc, vì các cô con gái của họ đang tòng quân.
1 bà già đi tuần đêm để gác kho thóc của nông trang tập thể. Bà vũ trang bằng 1 cái quai nồi, khi ai đó đến gần, bà quát: "Đứng lại! Ai đó? Tôi sẽ bắn đấy!"
1 lần nữa, nhìn qua thảo nguyên Volga trải dài đến Kazakhstan, Grossman lại liên tưởng đến sự mênh mông của đất nước ông. Chưa bao giờ kích thước khổng lồ của Liên Xô lại được xem là công cụ phòng ngự quan trọng như lúc này.
Cuộc chiến đã lan tới biên giới Kazakhstan, hạ nguồn sông Volga, tạo nên 1 cảm giác đáng sợ về 1 mũi dao đang đâm sâu vào cơ thể đất nước. Tướng Gordov từng chiến đấu ở tây Belorussia nay lại đang chỉ huy quân đội tại Volga (**). Cuộc chiến đã lan tới Volga.
Grossman cuối cùng đã tới được điểm đến của cuộc hành trình khi Tập đoàn quân 6 và 1 phần Tập đoàn quân 4 Thiết giáp Đức đã áp sát vùng ngoại ô phía bắc, tây và nam thành phố.
Stalingrad đã bị đốt trụi. Lẽ ra tôi đã phải viết rất nhiều nếu muốn mô tả điều đó. Stalingrad đã bị thiêu trụi. Stalingrad giữa 1 đống tro tàn. Thành phố chết. Người dân phải sống trong hầm. Mọi thứ đang bốc cháy. Những bức tường nhà nóng bỏng như thân thể những người bị chết vì sốt cao chưa kịp lạnh đi.
Những toà nhà lớn, đài tưởng niệm, công viên, biển báo ngã tư, hàng đống dây rợ, 1 chú mèo ngủ trên bậu cửa sổ, hoa và cỏ mọc trong bồn, 1 lán gỗ vốn dùng để bán nước có ga, kỳ diệu thay những thứ đó vẫn nguyên vẹn giữa hàng nghìn toà nhà lớn đã cháy và đổ nát. Thành phố trông giống như Pompeii, chìm trong thảm hoạ vào 1 ngày khi mà mọi thứ vẫn đang phát triển hưng thịnh. Tàu điện và ô tô ko có kính. 1 toà nhà đã cháy trụi chỉ còn tấm biển đồng tưởng niệm: "I. V. Stalin đã nói chuyện tại đây năm 1919." (***)
(*) Thật là 1 ghi chép khinh suất, nếu bị 1 kẻ chỉ điểm báo cáo có thể dẫn tới nhiều năm cải tạo trong trại Gulag, giống như các báo cáo quá rõ ràng từ Uỷ ban Phòng thủ Stalingrad vậy.
(**) Tướng Vasily Nikolayevich Gordov (1896 - 1950), chỉ huy Tập đoàn quân 64 trong cuộc rút lui vượt sông Đông, trở thành tổng tư lệnh Phương diện quân Stalingrad trong thời gian rất ngắn rồi được tướng Yeremenko thay thế. Bị bắt năm 1947 trong cuộc Tiểu Thanh trừng và bị hành quyết vì tội phản quốc năm 1950.
(***) Thành phố Tsaritsyn đã được đổi tên thành Stalingrad để vinh danh cuộc phòng thủ được tô vẽ quá mức do Stalin đứng đầu chống lại các cuộc đột kích cướp phá của lực lượng Bạch Vệ trong thời kỳ Nội chiến Nga.
Toà nhà bệnh viện nhi có bức tượng chim bằng thạch cao trên mái. 1 cánh chim đã bị gãy lìa, cánh còn lại vẫn vươn cao. Toà nhà Cung Văn hoá cháy thâm đen lại, 2 bức tượng khoả thân trắng muốt vẫn đứng trước mặt tiền đen sì.
Những đứa trẻ đi lang thang, nhiều đứa vừa đi vừa cười. Nhiều người dân đang trong tình trạng mất trí.
Hoàng hôn trên quảng trường. 1 vẻ đẹp ghê sợ và quái đản: ánh sáng hồng của bầu trời xuyên qua hàng trăm nghìn cửa sổ và mái nhà trống hoác. 1 tấm poster khổng lồ có màu sắc rất thiếu thẩm mĩ ghi dòng chữ: "Con đường sáng."
1 cảm giác bình thản. Thành phố đã chết sau khi trải qua biết bao đau đớn và giờ đây nhìn giống khuôn mặt của 1 người chết sau cơn bệnh khủng khiếp nhất để rồi tìm thấy cõi bằng an vĩnh cửu. Lại bom, bom rơi xuống 1 thành phố chết.
Mặc dù phần lớn đàn ông đã bị điều động ra ngoài thành phố để phục vụ chiến tranh, số lượng thường dân tại Stalingrad vẫn phình ra vì dòng người tị nạn đến từ châu thổ sông Đông. Grossman thử phỏng vấn vài người trong số họ, trong đó có 1 bà cụ và 1 phụ nữ trẻ hơn tên là Rubtseva đến từ 1 nông trang tập thể.
"Chồng bà đâu?"
"Ko, đừng hỏi," Seryozha, con trai bà thở dài. "Chú sẽ làm mẹ cháu đau khổ đấy."
"Anh ấy đã hoàn thành nghĩa vụ của mình trong chiến đấu," bà mẹ trả lời. "Anh ấy hi sinh hồi tháng 2." Bà đã nhận được giấy báo tử. Câu chuyện của bà về những lính Hồng quân hèn nhát: "1 chiếc máy bay Đức lao tới như 1 mũi tên. Đúng lúc có thể bắn nó thì tất cả những "người hùng" quân ta lại nằm rạp xuống cỏ. Tôi chửi họ: "Ah, chúng mày là bọn khốn!"
"1 lần, vài người lính áp giải 1 tù binh Đức đi qua làng. Tôi hỏi hắn: "Mày tham chiến từ bao giờ?" "Từ tháng 1," hắn trả lời. "Rồi có phải mày đã giết chồng tao ko?" Tôi giơ tay, nhưng người vệ binh ko để tôi đánh hắn. "Thôi nào," tôi bảo, "để tôi cho nó 1 trận." Và anh cảnh vệ trả lời: "Ko có luật nào cho phép điều đó." "Cứ để tôi đánh hắn chẳng cần luật lệ gì sất, rồi tôi sẽ đi ngay." Anh ta ko chịu.
"Đương nhiên ai đó vẫn có thể sống được dưới ách phát xít, nhưng đó ko phải kiểu sống của tôi. Chồng tôi đã bị giết. Giờ tất cả những gì tôi còn là thằng Seryozha này. Nó sẽ trở thành 1 người vĩ đại dưới chế độ Soviet. Dưới tay bọn Đức nó có thể chết như 1 con vật.
"Những người bị thương đã lấy của chúng tôi nhiều thứ, chúng tôi cũng ko thể giữ chúng thêm. Họ đào sạch khoai tây, vặt hết cà chua và bí ngô, họ quét sạch cả nhà tôi - khăn choàng, khăn tắm, chăn. Họ còn thịt cả con dê nữa, nhưng ai mà chẳng phải thông cảm với họ khi thấy tình cảnh tương tự. Nếu 1 người bị thương đến với bạn và khóc, bạn sẽ cho họ bữa tối và khóc cùng họ."
Bà già nói: "Bọn ngu độn đó đã để quân địch tiến tới được trái tim của đất nước, sông Volga. Họ đã cho chúng 1 nửa nước Nga. Thật đấy, đương nhiên là bọn Đức đã thu được vô số máy móc."
Khi đến thăm Traktorny, nhà máy sản xuất máy kéo lớn ở phía bắc Stalingrad, Grossman đã được nghe về cuộc tấn công của Sư 16 Thiết giáp Đức hôm 23/8 qua lời của 1 viên trung tá có cái tên kỳ cục là German (tức là Đức - Maseo), chỉ huy 1 trung đoàn phòng ko.
Đêm 23/8, 80 xe tăng Đức tiến vào Traktorny thành 2 hàng dọc cùng với nhiều chiến xa và bộ binh. Trong trung đoàn của German có nhiều cô gái trẻ, trực tổng đài, trắc thủ, quân báo, vân vân và vân vân. 1 cuộc oanh tạc dữ dội diễn ra cùng lúc với đà tiến của xe tăng. 1 số pháo đội nhằm bắn vào xe tăng, số khác bắn máy bay. Khi những chiếc tăng tiến thẳng tới vị trí pháo đội của đại uý Skakun, anh đã nổ súng vào chúng. Pháo đội của anh sau đó bị máy bay địch tấn công, anh lệnh cho 2 khẩu pháo phòng ko tiếp tục bắn tăng, 2 khẩu còn lại bắn máy bay. Sau đó ko còn liên lạc gì với pháo đội này nữa. "Thế đấy, chắc là họ đã bị hạ," trung đoàn trưởng nghĩ bụng. Sau đó ông nghe 1 tiếng súng gầm lên, rồi lại im lặng. "Thôi xong, giờ thì họ đã phải dừng lại!" ông lại nghĩ vậy. Súng lại nổ lần nữa. Chỉ trong đêm 24/8 đó cả pháo đội đã chỉ còn lại 4 người lính trở về. Họ kéo Skakun theo bằng 1 tấm vải, anh ta bị thương rất nặng. Những cô gái đều đã hi sinh bên súng.
Pháo đội của Golfman thì chiến đấu suốt 2 ngày bằng vũ khí cướp được của địch: "Các anh là cái giống gì thế, bộ binh hay pháo binh?"
"Chúng tôi là cả 2."
Cả 2 phe đều đều sử dụng vũ khí và xe cộ chiến lợi phẩm, điều đó gây nên nhiều sự lộn xộn.
1 lữ đoàn tăng hạng nhẹ do trung tá Gorelik chỉ huy đã đánh vào khu vực nhà máy sản xuất máy kéo, bất thần 1 số xe tăng ta nổ tung. "Bọn Đức!"
"Bọn Đức nào?" Chiếc xe tăng dẫn đầu hàng quân Đức là 1 chiếc KV.(*)
1 đơn vị nhỏ phòng ko được lệnh rút lui nhưng vì ko thể di chuyển pháo nên nhiều người đã ở lại. Chỉ huy của họ, trung uý Trukhanov, đã đứng thay vị trí pháo thủ và bắn trực xạ vào quân địch. Anh đã hạ được 1 chiếc tăng và sau đó tự sát.
Với lữ đoàn của Gorelik. Mọi người ko hình dung được tầm quan trọng của các sự kiện xảy ra trong ngày 23/8. Lữ đoàn đã bị thiệt hại vì ko được cảnh báo trước. Ko huân chương nào được trao sau trận đánh. Xe công vụ của chỉ huy lữ đoàn bị lấy đi vì ông ta cũng đã bị 1 cơn sốt thương hàn đánh quỵ.
Sarkisyan. Anh chàng này ko tới Stalingrad hôm chủ nhật vì qua 1 phụ nữ quen được trong làng anh ta phát hiện bia sẽ được chuyển tới đó. Anh đã tự làm mình mắc kẹt trong guồng máy quân sự Đức như 1 mẩu thép lọt vào cỗ máy. Có lẽ anh đã làm Hitler phải mất ngủ vài ngày: quân đội của hắn đã ko giữ được nhịp độ tiến công! Mà tốc độ thì gần như là điều quan trọng nhất.
Chắc Grossman đang kể lại trận đánh trong 2 ngày 23 và 24/8 do đại uý Sarkisyan và các khẩu đội pháo phòng ko của anh tiến hành, phần lớn pháo thủ là các cô gái trẻ vốn là học sinh sinh viên Stalingrad. Bằng sự can đảm kỳ lạ, họ đã chống trả Sư 16 Thiết giáp Đức cho đến khi toàn bộ 37 vị trí đều bị xe tăng Đức tiêu diệt. Sarkisyan cũng như đại tá German đã kể lại trận đánh cho Grossman, nhấn mạnh việc "các cô gái ko chịu trốn xuống hầm," và chiến đấu trực diện với những cỗ thiết giáp Đức. Tuy nhiên vấn đề thực sự mà tướng Von Wietersheim của Quân đoàn 14 Thiết giáp Đức phải đối mặt lại là chuyện thiếu hụt nhiên liệu.
Sử dụng phối hợp những quan sát của bản thân với lời kể của những người được phỏng vấn, Grossman sau này đã mô tả 1 cách giàu hình ảnh về cuộc rút lui cuối tháng 8 từ sông Đông về sông Volga khi các sở chỉ huy của các đơn vị rút lui thuộc tập đoàn quân 62 và 64 đã tập hợp được về Stalingrad.
Đó là những ngày khó khăn ác liệt ... các tập đoàn quân đang rút lui, khuôn mặt ai nấy đều u ám. Bụi phủ lên trang phục và vũ khí, bụi chui vào nòng súng, phủ đầy trên những tấm bạt bọc thùng chứa đầy tài liệu của các sở chỉ huy, trên cổ áo đen bóng của những nhân viên đánh máy, trên hòm xiểng và những khẩu súng trường xếp lộn xộn trên những cỗ xe ngựa kéo. Bụi khô xám chui cả vào lỗ mũi và cổ họng mọi người, làm cho môi khô nẻ.
Đó là thứ bụi đáng sợ, bụi của cuộc rút lui. Nó ăn sạch niềm tin của con người, làm tiêu tan hơi ấm trong những trái tim, tạo thành 1 đám mây tối tăm trước mắt những người lính pháo thủ. Có những lúc nó làm người ta quên đi bổn phận, sức mạnh và cả vũ khí, và 1 cảm giác u tối xâm chiếm họ. Những cỗ xe tăng Đức đang gầm rú chạy trên đường. Những chiếc máy bay ném bom bổ nhào Đức vẫn đang lao xuống những cây cầu vượt sông Đông suốt ngày đêm. Bọn "Messer" này rít lên như những cỗ xe hàng. Khói, lửa, bụi và cái nóng khủng khiếp. Trong những ngày đó, gương mặt của những người lính đang hành quân nhợt nhạt như khuôn mặt những thương binh đang nằm trên những chiếc xe tải 1,5 tấn rung bần bật. Trong những ngày đó, người ta mang vũ khí mà đi với vẻ mặt như than như trách, trông chẳng khác gì những con bù nhìn rơm, mình quấn băng rướm máu, mong chờ những chuyến xe cứu thương mang đi. Quân đội vĩ đại của 1 đất nước vĩ đại đang rút lui.
Những đơn vị đầu tiên của các tập đoàn quân đó đã rút về tới Stalingrad. Những chiếc xe tải chở theo những người bị thương gương mặt xám xịt, những chiếc xe đi đầu thành xe nát bươm, lỗ chỗ vết đạn và mảnh đạn, những chiếc Emka công vụ thủng toác kính chắn gió, xe nào cũng mắc đầy những mẩu cỏ khô và lau sậy, phủ đầy bụi bậm và bùn đất, vượt qua những phố xá tao nhã của thành phố, vượt qua những khung của sổ sáng lấp lánh của các cửa hàng, vượt qua những kiosk sơn sáng màu bán nước có ga và sirô, vượt qua những hiệu sách và cửa hàng đồ chơi. Và hơi thở của chiến tranh đã đến với thành phố, xuyên thấu tim gan nó.
Cũng phải nói thành thật. Trong những ngày đầy lo lắng đó, khi tiếng nổ của các trận đánh có thể nghe được từ ngoại ô Stalingrad, khi đêm đến người ta có thể nhìn thấy rocket bay ngang qua bầu trời, ánh sáng xanh lợt của đèn phòng ko cắt ngang dọc, khi những chiếc xe tải đầu tiên, biến dạng vì mảnh đạn, chở theo những người bị thương và đồ đạc của các sở chỉ huy xuất hiện trên các con phố, khi các trang đầu báo chí loan tin về mối nguy hiểm sống còn đối với đất nước, nỗi sợ hãi tìm được con đường len vào những trái tim, và nhiều con mắt dõi qua sông Volga. Có vẻ như những người này ko phải là kẻ phải bảo vệ sông Volga mà là sông Volga sẽ phải bảo vệ họ. Mọi người bàn tán rất nhiều về việc sơ tán thành phố, về tình hình giao thông, về các chuyến tàu tới Saratov và Astrakhan; bề ngoài có vẻ như họ lo lắng cho số phận thành phố, trong khi thực tế họ làm cho việc phòng thủ thành phố thêm khó khăn vì những biểu hiện dù câm lặng của họ, nỗi sợ hãi và lo lắng của họ cho thấy rằng họ nghĩ Stalingrad sẽ phải đầu hàng.
(*) Loại xe tăng Soviet tiêu chuẩn vào năm 1942 là T34, tăng hạng trung, nhưng vẫn còn 1 số tăng KV hạng nặng tham chiến. KV là viết tắt của Kliment Voroshilov, bạn chí cốt của Stalin đã từng làm Bộ trưởng Quốc phòng thời chiến tranh Xô - Phần.
MƯỜI BỐN
NHỮNG TRẬN ĐÁNH THÁNG 9
Thành phố Stalingrad có chiều dài khoảng 40km chạy dọc theo bờ tây con sông Volga vĩ đại. Sau cuộc đột kích bất ngờ của Quân đoàn 14 Thiết giáp Đức vào điểm cực bắc thành phố ngày 23/8, đà tiến của Tập đoàn quân 6 Đức vào thành phố chậm lại. Stavka dưới sức ép khủng khiếp của Stalin lúc này đang nóng giận cực độ, đã ra lệnh tấn công xuyên thảo nguyên về phía bắc để đánh váo sườn trái Quân đoàn 14 Thiết giáp. Cuộc tấn công vội vàng và thiếu chuẩn bị này đã dẫn tới những thiệt hại to lớn về người và trang thiết bị nhưng đã làm Paulus phải dè chừng và chuyển sự chú ý của Luftwaffe (Ko quân Đức) ra khỏi thành phố, đồng thời cho Stavka có thêm thời gian để chuyển gấp các lực lượng dự bị ra mặt trận.
Trên hướng tây nam, 1 phần Tập đoàn quân 4 Thiết giáp của tướng Hoth vẫn ko ngừng tiến về phía Stalingrad, mặc cho Yeremenko đã tập trung được những mảnh vụn của lực lượng do ông chỉ huy về vị trí này. "Đại biểu Uỷ ban Quân sự" của Yeremenko, tức người đứng đầu các Ctrị viên là Nikita Khrushchev, người từng phụ trách việc sơ tán ngành công nghiệp Soviet khỏi Ukraina (*). Grossman sau đó đã vượt sông Volga để gặp Yeremenko và Khrushchev tại sở chỉ huy mới của Phương diện quân Stalingrad.
Những bộ phận còn lại của Tập đoàn quân 62 và Tập đoàn quân 64 cuối cùng đã rút hết qua thảo nguyên sông Đông về đến thành phố trong tình trạng kiệt quệ và mất tinh thần. Ngày 12/9, Tập đoàn quân 62 thu hẹp vành đai phòng thủ còn 3km chiều sâu ở điểm cực nam thành phố và 15km ở ngoại ô phía bắc. Đến cuối tháng, vành đai phòng thủ thu lại chỉ còn 1 dải đất ở phần phía bắc thành phố dài khoảng 20km với chiều sâu từ 1 - 5km.
Do ko có 1 thứ gì tương tự như nhật ký nên rất khó để theo sát được sự di chuyển của Grossman. Tuy nhiên có thể suy luận từ những cuốn sổ ghi chép của ông rằng ban đầu ông đã lưu trú tại Dubovka, 1 địa điểm nằm trên bờ tây sông Volga cách cực bắc Stalingrad gần 40km về phía thượng nguồn. Bờ tây con sông dốc đứng và đôi khi có những vách đá nhỏ, cao hơn bờ đông bằng phẳng rất nhiều. Tư tưởng xuyên suốt của những tên xâm lược Đức là tiến tới sông Volga, "trái tim của nước Nga", để tạo nên tâm trạng thất bại trong nhiều người như Grossman đã gặp trong nhiều ghi chép của ông.
(*) Nikita Sergeyevich Khrushchev (1894 - 1971), 1 chính uỷ trong cuộc Nội chiến Nga, gia tăng thế lực bằng cách ủng hộ Stalin chống lại Trotsky. Ông phụ trách phần lớn công việc xây dựng đường tàu điện ngầm Moscow và đóng vai trò là 1 trong những người đứng đầu cuộc đánh trí thức Ukraina trong thời kỳ Đại Thanh trừng. Năm 1939, ông trở thành Chủ tịch ĐCS Ukraina và đến năm 1941 tổ chức cuộc sơ tán các nhà máy về phía đông khi quân Đức xâm lược. Sau chiến tranh và sau cái chết của Stalin năm 1953, ông đã đứng đầu 1 việc táo bạo là chống Beria và nắm quyền lực. Ông đã lên án Stalin tại Đại hội Đảng lần thứ 20 năm 1956 nhưng những cố gắng của ông trong việc mở rộng tự do lại trái ngược với 1 số hành động khác ví dụ như cuộc đàn áp những người Hungary nổi dậy năm 1956.
Giờ thì ko còn chỗ nào mà rút lui nữa, mỗi bước lùi giờ đây đều có thể là 1 sai lầm vô cùng tai hại. Người dân sống trong các làng bên bờ sông Volga cảm thấy điều đó, các chiến sĩ đang phòng thủ Volga và Stalingrad cũng vậy.
Cảm giác vui sướng và đau khổ diễn ra cùng lúc khi ngắm nhìn dòng sông đẹp nhất thế giới này. Những cành cây rủ bóng xuống những dòng suối màu xanh xám, những cầu tàu đứng nhô ra, những lọn khói nhẹ bay ra từ những ống khói ... Khắp mọi nơi, cả ở bờ sông nữa, là những chiến hào, boongke và hào chống tăng. Chiến tranh đã lan tới sông Volga.
Chúng tôi ở trong nhà của 1 kulak (địa chủ) đã bị trưng thu. Chỉ thỉnh thoảng chúng tôi mới bất ngờ bắt gặp bà chủ nhà quay lại, có Chúa mới biết là từ đâu. Bà ta theo dõi chúng tôi suốt ngày đêm nhưng ko nói gì. Bà đang chờ đợi. Và chúng tôi cứ sống trong cái nhìn chòng chọc của bà ta.
1 bà già ngồi suốt đêm dưới 1 nhánh hào. Cả Dubovka này đều ngồi dưới những nhánh hào. 1 chiếc Kerosinka (*) đang bay trên đầu, nó lắc lư, nhấp nháy đèn (**) và thả vài trái bom nhỏ.
"Bà già đâu?"
"Dưới hào ấy," 1 ông già cười nói. "Thỉnh thoảng bà ấy thò đầu lên nhìn quanh như suslik (***) rồi lại thụt xuống."
"Với chúng ta thế là hết. Thằng Hitler lừa đảo đã đến được trái tim của đất nước ta."
1 chú lính mang cây súng trường chống tăng đang lùa 1 đàn cừu lớn xuyên qua thảo nguyên.
Trong bài viết tiếp theo, Grossman xuất hiện ở gần thành phố hơn, tại 1 địa điểm gần Rynok, ngoại ô phía bắc thành phố. Ở đây có những công viên và vườn tược đầy trái chín hiện lên trước mắt những tên lính Sư 16 Thiết giáp Đức như thể Vườn Địa Đàng, chúng đã phải vượt thảo nguyên suốt 2 tháng vừa qua dưới ánh nắng chói chang.
Máy bay gầm rú suốt đêm trên đầu chúng tôi, bầu trời vang động cả ngày lẫn đêm như thể chúng tôi đang ngồi dưới những nhịp của 1 cây cầu khổng lồ. Cây cầu này xanh sáng vào ban ngày, xanh thẫm vào ban đêm, có hình vòng cung và bao phủ bằng những vì sao - và những hàng xe tải 5 tấn đang rầm rập qua cầu.
Các hoả điểm nằm ở bờ bên kia sông Volga, nơi trước đây là 1 viện điều dưỡng, trên 1 vách đá dựng đứng. Dòng sông màu xanh và hồng, rộng như biển. Trong những vườn nho, dưới những cây dương là các pháo đội được nguỵ trang bằng lá nho. Trên những chiếc ghế dài dành cho người đi nghỉ mát, 1 trung uý đang ngồi trước 1 cái bàn nhỏ. Anh ta hô: "Pháo đội, bắn!"
Xa xa là thảo nguyên. Ko khí thổi từ sông Volga mát rượi, mang hơi ấm của thảo nguyên. Những chiếc Messer đang bay trên đó, 1 lính canh hô: "Chú ý trên ko!". Ko khí trong sạch thoảng hương ngải đắng.
Những người bị thương quấn đầy băng rướm máu đang đi bộ dọc bờ sông Volga, ngay sát mép nước. Nhiều người cởi trần truồng ngồi trong ánh hoàng hôn màu hồng của Volga để bắt rận trong đồ lót. Những chiếc xe đầu kéo gầm rú, phanh ken két trên lớp sỏi bờ sông. Rồi sau đó là những ánh sao đêm. Ai nấy đều có thể nhìn thấy 1 ngôi nhà thờ màu trắng ở phía xa, trên bờ Volga.
1 buổi sáng lạnh và trong lành ở Dubovka. 1 tiếng nổ, cửa kính vỡ loảng xoảng, bụi vữa bốc mù mịt. Những tiếng gào thét và khóc than vang lên bên dòng Volga. Bọn Đức đã ném bom giết chết 7 phụ nữ và trẻ em. 1 cô gái mặc bộ áo váy màu vàng sáng hét lên: "Mẹ ơi, mẹ ơi!"
1 người đàn ông đang khóc như phụ nữ. 1 cánh tay của vợ anh đã bị tiện phăng. Vợ anh vẫn đang nói 1 cách bình tĩnh với giọng thều thào. 1 phụ nữ bị bệnh thương hàn trúng mảnh đạn vào bụng, cô vẫn chưa chết. Những cỗ xe ngựa phóng đi, máu từ chúng nhỏ tong tỏng. Và những tiếng gào khóc đang lan khắp Volga.
Grossman đã được lệnh rời bờ đông, hay bờ trái, qua thành phố đang bốc cháy bên bờ tây. Các điểm vượt sông được Sư 10 Bộ binh NKVD kiểm soát chặt chẽ để bắt những kẻ đào ngũ và cả để ngăn dân thường tháo chạy khỏi thành phố. Stalin cho rằng sự hiện diện của thường dân trong thành phố sẽ buộc binh sĩ Soviet chiến đấu quyết liệt hơn để bảo vệ nó. Grossman được Kapustyansky, 1 phóng viên khác của tờ Krasnaya Zvezda, hỗ trợ đã vượt sông Volga bất chấp nguy hiểm do Luftwaffe (Ko quân Đức) liên tục tấn công các điểm vượt sông.
Cuộc vượt sông đáng sợ, thật sự là sợ. Chiếc phà chật cứng ô tô, xe ngựa và hàng trăm con người bị mắc cạn. 1 chiếc Ju-88 từ trên cao phóng bom xuống. 1 cột nước khổng lồ màu trắng và xanh dựng lên. Cảm giác thật là sợ. Chẳng có 1 khẩu súng máy nào trên phà, ko 1 khẩu súng phòng ko nào dù là loại nhỏ. Con sông Volga lại lặng câm, tinh sạch mà đáng sợ như 1 đoạn đầu đài.
Thành phố Stalingrad những ngày cuối tháng 8, đầu tháng 9 và sau khi bị đốt cháy. Để vượt qua sông tới Stalingrad, việc đầu tiên là chúng tôi uống thật nhiều rượu táo trong 1 nông trang tập thể trên bờ trái để lấy dũng khí.
Những chiếc Messer đang quần thảo trên sông Volga, khói phủ mờ mặt sông, những hộp khói được đốt liên tục để nguỵ trang cho các phương tiện vượt sông.
Thành phố chết, thành phố cháy. Trên quảng trường Liệt sĩ, bia tưởng niệm ghi: "Cho những người vô sản Đỏ Tsaritsyn đã chiến đấu vì tự do và hy sinh do bàn tay của bọn tay sai Wrangel năm 1919."
Những người dân sống trong 1 ngôi nhà đã cháy trụi đang ăn shchi (súp bắp cải truyền thống Nga) trên bậc cửa, họ ngồi ăn ngay trên đống tư trang cá nhân. 1 cuốn sách tựa đề "Tội ác và Trừng phạt" nằm trên mặt đất gần đấy. Kapustyansky nói với những người đó: "Cả các anh nữa, các anh cũng đã phạm tội ác và bị trừng phạt". (****)
"Chúng tôi bị trừng phạt, nhưng ko phạm tội ác," 1 cô gái trả lời.
(*) Kerosinka (tức là đèn dầu hay bếp dầu) là tên lóng loại máy bay 2 tầng cánh bọc vải bạt Polikarpov U-2 vốn thường chỉ dùng để bay huấn luyện hay phun thuốc trừ sâu. Chúng bị gọi là kerosinka vì có thể bắt cháy rất nhanh. Tại Stalingrad, chúng thường được lái bởi những cô gái trẻ từ 18 - 20 tuổi. Họ bay vượt qua chiến tuyến trong đêm, tắt máy rồi thả những trái bom nhỏ vào chiến tuyến Đức. Những quả bom này ko có hiệu quả mấy nhưng đó là chiến thuật gây lo lắng và mất tinh thần quân Đức. Bọn Đức gọi những chiếc máy bay này là "máy xay cafe" và những nữ phi công trẻ là "phù thuỷ đêm".
(**) Chắc để thông báo cho các binh sĩ Hồng quân trên tiền tuyến ko bắn vào họ.
(***) Suslik: chuột hay sóc sống ở thảo nguyên.
(****) Tựa gốc: "Униженные и оскорбленные" truyện của Fyodor Dostoevsky viết năm 1861, dịch nguyên nghĩa là "Bị tổn thương và bị lăng nhục". Maseo dịch thoáng tí để giữ tên bản dịch tiếng Việt đã rất nổi tiếng của tác phẩm này.
2 phóng viên đi xa về phía tây vùng ngoại ô Stalingrad nơi các quân đoàn cánh phải của Tập đoàn quân 6 Đức do Paulus chỉ huy đang hội quân với Tập đoàn quân 4 Thiết giáp của Hoth tiến từ phía tây nam tới. Ở phía này quân Đức có 9 sư đoàn, mạnh hơn hẳn 40.000 quân Soviet đã kiệt sức của các Tập đoàn quân 62 và 64 đang rút lui về thành phố.
Varapanovo, nơi đây có những chiến hào cũ đã mọc đầy cỏ dại. Những trận đánh ác liệt nhất thời Nội chiến đã từng diễn ra ở đây, và giờ 1 lần nữa kẻ địch mạnh chưa từng thấy lại tấn công trực diện vào chỗ này.
Tuy vậy, trong phần lớn thời gian lưu lại đây Grossman và Kapustyansky đã ở trong thành phố. Họ được nghe về những tiểu đoàn công nhân đầu tiên đã được lập trong nhiều nhà máy. Chúng nằm dưới sự chỉ huy của Đại tá Sarayev, Sư trưởng Sư 10 NKVD. Cú sốc của cuộc tấn công là 1 thử thách lớn với hầu hết các cấp quân đội từ trên xuống dưới, vì vậy NKVD và Đoàn Thanh niên Komsomol đã siết chặt đội ngũ để ngăn ko cho ai bỏ chạy. Các Ctrị viên kể cho 2 phóng viên chuyện về quyết tâm của các binh sĩ.
1 người lính đã bắn 1 đồng đội, anh này đang kéo 1 người bị thương khỏi trận địa thì giơ tay hàng. Sau đó người lính đó đã tự mang người bị thương về. Cha của người lính này khi chia tay đã đưa cho anh chiếc khăn mà mẹ anh đã thêu khi còn con gái và 4 chiếc huân chương chữ thập mà ông có được trong WW1.
Đêm ở Stalingrad. Xe cộ chờ đợi tại điểm vượt sông. Bóng đêm bao trùm. Lửa cháy ở phía xa xa. 1 tốp quân tăng cường vừa vượt sông Volga đang từ từ di chuyển lên triền sông. 2 người lính đi bộ sau chúng tôi, tôi nghe thấy 1 người nói: “Ai thích 1 cuộc sống dễ dàng thì hãy sống gấp.” (*)
Grossman đã sử dụng 1 số ghi chép nói trên như 1 nguyên liệu cho bài viết của ông đăng trên tờ Krasnaya Zvezda số ra ngày 6/9.
Chúng tôi tới Stalingrad ngay sau 1 trận oanh kích. Lửa khói vẫn còn đây đó. 1 đồng chí người Stalingrad đi cùng chúng tôi chỉ cho xem căn nhà đã cháy của anh. “Đây là Nhà Thiếu nhi,” anh ta nói. “Còn chỗ này vốn đặt tủ sách của tôi, chỗ làm việc của tôi ở góc kia, chỗ có cái tẩu thuốc móp méo đấy. Nơi đó là bàn làm việc của tôi.” Có thể nhìn thấy khung của những cái giường trẻ con dưới đống gạch vụn. Tường nhà vẫn còn ấm giống như thân thể 1 người vừa mới chết chưa kịp lạnh đi.
Những bức tường và hàng cột của Cung Văn hóa Khoa học Tự nhiên phủ đầy bồ hóng sau vụ cháy còn 2 bức tượng khỏa thân trước tiền sảnh vẫn trắng muốt. Những con mèo Sibêri béo mượt đang ngủ trên khung cửa sổ các ngôi nhà trống. Gần bức tượng Kholzunov, mấy đứa trẻ đang thu nhặt mảnh bom và mảnh đạn pháo phòng ko. Trong buổi tối yên ắng đó, hoàng hôn màu hồng tuyệt đẹp nhìn thật u buồn khi xuyên qua hàng trăm ô cửa sổ trống hoác.
Nhiều người đã sớm làm quen được với điều kiện thời chiến. Các chuyến phà chuyển quân vào thành phố thường xuyên bị máy bay địch tấn công. Các thủy thủ lái phà vừa ăn dưa hấu vừa quan sát bầu trời. 1 chú bé đang chăm chú nhìn chiếc phao của cần câu cá, chân đu đưa. 1 bà già đang ngồi trên 1 chiếc ghế dài đan bít tất trong khi súng máy và súng phòng ko vẫn nổ từng loạt xung quanh.
Chúng tôi tới 1 ngôi nhà đổ. Những người sống trong nhà đang ăn tối quanh chiếc bàn làm từ những tấm gỗ đặt trên mấy cái hộp. Lũ trẻ thổi shchi (xúp bắp cải) nóng trong bát.
Đối với các nhà cầm quyền Soviet, có vẻ như cách duy nhất để cứu Stalingrad là mở các cuộc tấn công liên tục vào cánh bắc Quân đoàn 14 Thiết giáp Đức. Tuy nhiên dù có tới 3 Tập đoàn quân Bộ binh tham chiến là 1 Cận vệ, 24 và 66 cơ hội của họ vẫn rất nhỏ, kể cả trong trường hợp họ có quân số vượt trội so với đối phương. Quân Soviet thiếu đạn, đặc biệt là đạn pháo, và phần lớn là sĩ quan và binh lính dự bị.
Những lệnh đốc thúc được Stalin ra trong lúc giận dữ đã dẫn tới tình trạng cực kỳ hỗn loạn. Các sư đoàn trở nên lúng túng sau khi tiến ra khỏi đầu mối đường sắt Frolovo, phía bắc khúc uốn sông Đông, vì ko biết mình được phối thuộc vào Tập đoàn quân nào hay mình sẽ đi đâu. Luftwaffe (ko quân Đức) tha hồ bắn phá họ trên thảo nguyên mênh mông, trong khi đó những lính tăng Đức được huấn luyện hơn hẳn đã khiến cho cuộc chiến trở nên ko cân sức. Grossman đã ở Dubovka, gần với khu vực đã diễn ra những cuộc tấn công xấu số đó.
Các sư đoàn đang di chuyển, gương mặt của mọi người diễu qua, công binh, pháo binh, xe tăng. Họ đi suốt ngày đêm. Những gương mặt, lại những gương mặt, tất cả đều có vẻ nghiêm trọng, đó là gương mặt của những người bất hạnh.
Trước khi cuộc tiến quân bắt đầu, người vô sản Lyakhov, lính tiểu đoàn bộ binh cơ giới lữ đoàn tăng, viết cho các vị chỉ huy của mình: “Hãy để cho Đồng chí Stalin biết rằng tôi xin hiến dâng mạng sống vì lợi ích của Đất Mẹ, và vì Stalin. Và tôi ko hề hối tiếc dù chỉ 1 giây. Nếu tôi có 5 mạng sống, tôi cũng hiến dâng tất cả ko do dự. Hãy gửi lời chào tốt đẹp nhất tới đồng chí ấy hộ tôi.”
Grossman rất thích thú với những lời càu nhàu hàng ngày của cánh lính tráng. Trong trường hợp sau đây, 1 người lính đã nói về thảo nguyên rộng lớn nơi 1 phi công Luftwaffe có thể dễ dàng phát hiện 1 cái bếp dã chiến và sau đó chuyển sang 1 đề tài khác cũng rất được lính tráng quan tâm: ủng.
“Người ta chết phần lớn chỉ vì những cái bếp. Các hạ sĩ quan đã “ăn đòn đủ” lúc đang chờ thức ăn bên bếp, vì thế thường người ta chỉ xuất hiện khi đã có thức ăn sẵn sàng. Tôi cũng rất khó chịu với đôi ủng này. Tôi đã phải cuốc bộ với những vết rộp rướm máu. Tôi lấy nó từ 1 người chết vì chẳng còn cách nào khác, nhưng nó quá nhỏ so với chân tôi.”
“Cánh lính trẻ chúng tôi chẳng bao giờ nhớ nhà, thường chỉ những lính già mới vậy … Hạ sĩ Đại đội 4 là Romanov đã bỏ rơi chúng tôi ngoài chiến địa. Đám lính trẻ chúng tôi đã được dạy dỗ chu đáo, chúng tôi chịu đựng tất cả 1 cách kiên nhẫn, nhưng cánh lính già thì cảm thấy tệ hơn nhiều.”
Grossman hay đi với 1 lính Hồng quân tên là Gromov, xạ thủ súng trường chống tăng, ở tuổi 38 ông là 1 thứ đồ cổ xuất hiện giữa đám lính trẻ mới nhập ngũ. Theo lời kể của Ortenberg, Grossman đã lưu lại 1 tuần trong 1 đơn vị chống tăng. “Anh ta ko hề trở thành 1 người xa lạ trong gia đình của những người lính chống tăng này,” Ortenberg viết. Ortenberg khẳng định sự tín nhiệm đối với Grossman khi viết về ông, có lẽ do nhân vật Gromov trong tác phẩm của Grossman sau này được hoan nghênh nhiệt liệt, nhất là bởi Ilya Ehrenburg. Đây là câu chuyện về Gromov trong những ghi chép của Grossman:
“Khi bạn bắn nó, bạn sẽ thấy 1 ánh chớp nhoáng lên trên chiếc thiết giáp. Phát đạn nổ inh tai, vì vậy phải mở miệng khi bắn. Tôi đang nằm thì nghe tiếng thét: “Chúng đến!” Phát đạn thứ 2 của tôi bắn trúng chiếc tăng. Bọn Đức bắt đầu gào lên thảm thiết. Chúng tôi nghe tiếng chúng kêu rất rõ. Tôi ko hề thấy sợ tí nào, tinh thần tôi dâng cao. Đầu tiên, có 1 chút khói bốc ra, rồi có tiếng lách tách và ngọn lửa bùng lên. Evtikhov cũng bắn trúng 1 chiếc ô tô, ngay giữa thân, và bọn Fritz (Đức) kêu mới khiếp chứ!” (Đôi mắt xanh của Gromov hấp háy sáng trên khuôn mặt khắc khổ.) “Số 1 mang súng trường chống tăng. Số 2 mang 30 viên đạn súng chống tăng, 100 viên đạn súng trường thường, 2 lựu đạn chống tăng và súng trường. Tiếng nổ khi bắn khẩu súng trường chống tăng thật kinh dị, mặt đất cứ rung lên.”
“Thương vong của chúng tôi chủ yếu do chúng tôi phải tự đi lấy bữa sáng và bữa tối. Chúng tôi chỉ có thể đi vào ban đêm. Có nhiều vấn đề với những cái đĩa, vì vậy chúng tôi phải chứa đồ ăn vào xô.”
“Quân ta thường nằm nghỉ ban đêm và tiến quân ban ngày. Mặt đất phẳng lì như 1 cái mặt bàn.”
(*) Có nghĩa là “Hãy nắm lấy mọi thứ có thể trong cuộc đời khi còn cơ hội.”
Những ghi chép nói trên, bao gồm cả những lời của Gromov, đã được đưa vào 1 bài báo trên tờ Krasnaya Zvezda, bài báo này đã gây ấn tượng mạnh với Ehrenburg và những người khác.
Khi hành quân, xương vai của những người lính mang súng trường chống tăng đau nhức và cánh tay họ tê dại. Với 1 khẩu súng trường chống tăng, thật khó để nhảy qua 1 chướng ngại vật hay đi bộ trên mặt đất trơn. Sức nặng của khấu súng làm bạn đi chậm lại và đảo lộn óc thăng bằng của bạn.
Những người lính sử dụng súng trường chống tăng bước từng bước nặng nhọc, trông hơi giống người bị thọt chân - 1 bên người họ bị sức nặng của khẩu súng đè xuống. Gromov lòng tràn đầy tức giận y như 1 người khó tính, người vì chiến tranh mà phải rời bỏ ruộng đồng, nhà cửa, vợ con. Đó là nỗi tức giận của anh chàng Thomas hay nghi ngờ sau khi tận mắt chứng kiến những trở ngại lớn lao đối với người của mình … Những bức tường trắng ám khói đen và bụi vàng xám dựng lên trước mặt và sau lưng những người lính súng trường chống tăng, chúng thường bị gọi là “đồ chết tiệt” … Gromov nằm dưới 1 nhánh hào, giữa 1 địa ngục ồn ã bởi hàng ngàn thứ tiếng động, ngủ lơ mơ và duỗi đôi chân mỏi mệt: đó là sự nghỉ ngơi của 1 người lính bình thường và khắc khổ.
“Tôi bắn vào chiếc tăng 1 phát nữa,” Gromov nói. “Và tôi thấy trước hết là tôi đã bắn trúng nó. Tôi thở phào. Ngọn lửa xanh phụt ra từ tấm giáp như 1 tia chớp. Tôi hiểu ngay viên đạn chống tăng của tôi đã xuyên vào trong xe và tạo ra ngọn lửa xanh đó. Rồi có 1 chút khói bốc lên. Bọn Đức trong xe bắt đầu gào thét. Tôi chưa từng nghe tiếng người nào thét lên kiểu đó, và ngay sau đó trong xe có tiếng nổ lách tách. Chiếc tăng cứ kêu lách tách, lách tách. Rồi đạn trong xe bắt đầu nổ. Và sau đó là ngọn lửa bùng lên, bốc cao lên trời. Chiếc tăng vậy là rồi đời.”
Trung đoàn trưởng Savinov, khuôn mặt tốt bụng đặc Nga, mắt xanh, da rám nắng đỏ au, trên mũ sắt có 1 vết đạn lõm sâu. “Khi viên đạn bắn trúng tôi,” Savinov nói, “tôi ngất xỉu và nằm thẳng cẳng mất 15 phút. 1 tên Đức đã làm tôi choáng.”
Ngay cả thường dân cũng bị 2 phía bắt làm 1 số việc khi 2 bên đều nhận thấy đây có thể là trận đánh then chốt của cả cuộc chiến.
Những gián điệp. 1 cậu nhóc 20 tuổi có thể báo nơi đặt sở chỉ huy quân Đức nhờ vào những đường dây thông tin, bếp và sự đi lại của các giao liên. Bọn Đức đã nói với 1 phụ nữ: “Nếu mày ko đi và trở về đây, chúng tao sẽ bắn 2 con gái của mày.”
Phía Soviet tỏ ra quyết liệt hơn đối thủ khi buộc quân sĩ tham gia tấn công. Mệnh lệnh số 227 của Stalin - “Ko lùi 1 bước” - chỉ thị cho mỗi chỉ huy tập đoàn quân tổ chức “từ 3 đến 5 đơn vị chặn hậu được trang bị tốt (với khoảng 200 người mỗi đơn vị)” bố trí ở tuyến 2 để “chiến đấu chống lại sự hèn nhát” bằng cách bắn hạ bất cứ binh sĩ nào định bỏ chạy. Ở khu công nghiệp phía bắc Stalingrad, Grossman đã tới gặp Đại tá S. F. Gorokhov, người sau này chỉ huy Lữ đoàn 142.
Sau cuộc xung phong thứ 7, Gorokhov nói với chỉ huy đơn vị chặn hậu: “Nào, bắn vào lưng người khác thế là đủ rồi đấy. Hãy tiến lên và tham gia xung phong.” Viên chỉ huy đơn vị chặn hậu và người của ông ta tham gia vào cuộc xung phong, và bọn Đức bị đánh bật.
Sức phòng thủ của Stalingrad được tăng cường bởi thứ kỷ luật sắt máu nhất. Khoảng 13.500 binh sĩ đã bị hành quyết trong 5 tháng chiến đấu, phần lớn là trong những ngày đầu khi nhiều đơn vị tan vỡ. Grossman được nghe về những “hành vi bất thường”, ngôn ngữ hành chính Soviet để chỉ việc “phản bội Tổ quốc”, 1 loại tội phạm có định nghĩa rất rộng.
1 hành vi bất thường. Bản án. Hành quyết. Người ta lột quần áo rồi chôn anh ta. Đến đêm anh ta trở lại đơn vị trong bộ đồ lót dính đầy máu. Anh ta lại bị bắn.
Đây có thể là 1 trường hợp khác, nhưng nó gần giống những gì xảy ra ở Sư 45 Bộ binh khi đội hành quyết gồm các đặc vụ NKVD phối thuộc vào Sư đoàn đã ko giết chết 1 người đã bị kết án tử hình, có lẽ do rượu đã làm họ mất khả năng ngắm bắn (*). Người lính này, giống như nhiều người khác, bị kết án tử hình vì tự gây thương tích. Sau khi bắn anh ta, đội hành quyết chôn xác vào 1 hố đạn pháo gần đó, người bị bắn sau đó đã tự chui lên và quay lại đại đội của mình chỉ để rồi lại bị xử bắn lần nữa. Thường thì những người bị kết án sẽ bị buộc cởi hết quần áo trước khi bị bắn để người khác khi được phát lại bộ quân phục này sẽ ko ngã lòng trước những vết đạn lỗ chỗ.
1 số tướng lĩnh Soviet ko ngần ngại đánh cả các thuộc cấp có địa vị cao dù tệ đánh lính của sĩ quan và hạ sĩ quan là 1 trong những đặc tính đáng ghét nhất của quân đội thời Sa hoàng.
Cuộc nói chuyện giữa Đại tá Shuba và Tarasov với chỉ huy Tập đoàn quân:
“Cái gì?”
“Xin cho tôi nói lại lần nữa … ?”
“Cái gì?”
“Xin cho tôi nói lại lần nữa … ?”
“Ông ấy đấm giữa mồm Shuba. Tôi (chắc là Tarasov) vẫn đứng nguyên, cố thụt lưỡi vào sâu và nghiến chặt 2 hàm răng vì tôi sợ cắn phải lưỡi hay ra khỏi đây mà ko còn cái răng nào.”
Trong thời điểm khủng hoảng này của cuộc chiến, Grossman ghi lại trong các cuốn sổ nhiều câu chuyện về thói quan liêu trong quân đội và chính quyền Soviet.
Các đơn vị xe tăng ta đã bị máy bay đánh bom suốt 3 ngày, suốt thời gian đó các bức điện báo cáo về tình trạng trên còn bận di chuyển giữa các mắt xích khác nhau trong hệ thống chỉ huy.
1 sư đoàn bị bao vây, đồ tiếp tế được thả dù xuống, nhưng sĩ quan phụ trách hậu cần ko muốn cấp phát thực phẩm vì ko có người ký hóa đơn.
1 sĩ quan chỉ huy trinh sát ko thể cho phép làm điều gì đó nếu ko có nửa lít vodka hay tệ hơn là ko có thứ anh ta cần là 1 tấm lụa giá 80 rúp 50 kopeck.
Thông tin được nhắc đi nhắc lại: Yêu cầu các phi vụ đánh bom.
1 chiếc máy bay bốc cháy, phi công muốn bảo toàn nó nên ko chịu nhảy dù. Anh ta đưa được chiếc máy bay về sân bay. Người anh cháy sém, chiếc quần cũng cháy. Tuy vậy tay sĩ quan hậu cần từ chối cấp quần mới cho anh vì chưa đủ thời hạn ngắn nhất để được phép đổi đồ cũ lấy đồ mới. Thói quan liêu này phải vài ngày sau mới chấm dứt.
1 chiếc Yu-53 chứa đầy nhiên liệu bốc cháy trong 1 đêm quang đãng. Phi công nhảy dù.
Stalin vô cùng giận dữ khi nghe được vào ngày 3/9 rằng Stalingrad đã bị bao vây trên bờ tây Volga. Đối với tướng Yeremenko, tham mưu trưởng Phương diện quân Stalingrad, và Nikita Khrushchev, đại biểu Hội đồng Quốc phòng kiêm chỉ huy Ctrị, câu hỏi then chốt là ai sẽ được trao trách nhiệm phòng thủ thành phố. Ứng cử viên cho trọng trách này sẽ phải tiếp quản Tập đoàn quân 62 đang trong tình trạng mất tinh thần và thiệt hại nặng, tập đoàn quân này đã bị cắt rời khỏi đơn vị bạn ở phía nam là Tập đoàn quân 64 vào ngày 10/9.
Ngày hôm sau, 11/9, sở chỉ huy của Yeremenko đặt dưới hệ thống hầm ngầm qua đèo Tsaritsa đã nằm dưới tầm hỏa lực bắn thẳng của địch. Tổng biên tập của Grossman, Ortenberg, đã cùng với nhà văn Konstantin Simonov tới sở chỉ huy này hôm đó. Họ đã nói chuyện với Khrushchev đang trong tình trạng “thảm hại” vì nhận ra rằng thật khó để châm thuốc hút dưới đường hầm này vì thiếu ko khí. Khi Ortenberg và Simonov tỉnh dậy vào sáng hôm sau, họ nhận thấy sở chỉ huy đã chuyển đi nơi khác khi họ đang ngủ. Stalin, vẫn đang trong tâm trạng tức tối, đã bị buộc phải chấp thuận cho Yeremenko rút sở chỉ huy Phương diện quân Stalingrad qua bên kia sông Volga. Tướng Vasily Chuikov, 1 chỉ huy cứng rắn và ko khoan nhượng, được triệu đến nắm quyền chỉ huy Tập đoàn quân 62 vẫn còn trên bờ tây (**). Grossman sau này đã phỏng vấn tất cả những nhân vật liên quan nói trên.
Khrushchev - Mệt mỏi, tóc bạc trắng, béo phị. Trông hơi giống Kutuzov. Yeremenko - Đã từng bị thương 7 lần trong cuộc chiến này.
Yeremenko nhất định đòi được chọn Chuikov.
“Chính tôi đã tiến cử Chuikov. Tôi biết ông ấy, ông ta chưa hề biết sợ … Tôi biết Chuikov từ hồi còn hòa bình, tôi thường hạ ông ấy trong những cuộc thao diễn. “Tôi biết cậu dũng cảm thế nào,” tôi nói với ông ta, “nhưng tôi ko cần kiểu can đảm đó. Đừng ra những quyết định vội vàng như kiểu anh vẫn làm.””
Theo lời Chuikov, cuộc nói chuyện với Yeremenko và Khrushchev đã diễn ra như sau:
“Yeremenko và Khrushchev nói với tôi:
“Anh phải bảo vệ bằng được Stalingrad. Anh cảm thấy sao?”
“Rõ!”
“Ko, thế chưa đủ cho 1 lời tuân lệnh, anh nghĩ thế nào về lệnh này?”
“Nó có nghĩa là chết. Theo lệnh này chúng tôi sẽ đánh đến chết.””
Trong cuốn Hồi ký viết thời Khrushchev nắm quyền, Chuikov kể lại cuộc nói chuyện này hơi khác:
“Đồng chí Chuikov,” Khrushchev nói, “đồng chí hiểu nhiệm vụ của mình như thế nào?”
“Chúng tôi sẽ bảo vệ thành phố hoặc chết trong khi thi hành nhiệm vụ,” Chuikov trả lời.
Yeremenko và Khrushchev nhìn Chuikov và bảo ông đã hiểu nhiệm vụ của mình rất chính xác.
(*) Sư 45 Bộ binh chuyển thành Sư 74 Bộ binh Cận vệ ngày 1/3/1943 để tưởng thưởng cho những đóng góp của họ tại Stalingrad. Sư đoàn nằm trong đội hình Tập đoàn quân 62, sau này là Tập đoàn quân 8 Cận vệ cho đến hết chiến tranh.
(**) Tướng Vasily Ivanovich Chuikov (1900 - 1982) chỉ huy Tập đoàn quân 4 trong cuộc xâm lược Ba Lan năm 1939, sau đó chỉ huy Tập đoàn quân 9 trong chiến tranh Xô - Phần. Từ năm 1940 - 1942, ông là tùy viên quân sự tại Trung Quốc. Sau trận Stalingrad, Tập đoàn quân 62 do ông chỉ huy được chuyển thành Tập đoàn quân 8 Cận vệ và ông tiếp tục chỉ huy nó trên suốt các chặng đường chiến tranh cho đến thắng lợi cuối cùng tại Berlin, nơi ông đã tiếp nhận Văn bản Đầu hàng từ tướng Đức Hans Krebs. Từ năm 1949 đến 1953 ông là Tham mưu trưởng các lực lượng vũ trang Soviet tại Đông Đức, từ 1960 - 1961 ông là Thứ trưởng Bộ Quốc phòng.
Như ta thấy sau này, Grossman đã trở nên vỡ mộng sau khi chứng kiến sự kiêu căng và đố kỵ của các tướng lĩnh chỉ huy Stalingrad sau trận đánh, tất cả họ đều cho rằng vai trò của mình trong trận đánh đã ko được đánh giá đúng mức. Yeremenko đã công khai khoác lác về bản thân và cố gắng hạ thấp Khrushchev.
“Tôi đã từng là cai đội trong cuộc Đại chiến trước và hạ được 22 tên Đức … Có ai lại muốn chết? Chẳng ai háo hức với chuyện giết chóc … Vậy mà tôi đã phải ra những quyết định tàn nhẫn như thế này: “Xử bắn ngay tại chỗ!”
“Khrushchev đề nghị chúng tôi nên đặt mìn thành phố. Tôi gọi điện thoại cho Stalin về việc đó. “Để làm gì?” Stalin hỏi.
“Tôi sẽ ko để cho Stalingrad đầu hàng,” tôi nói. “Tôi ko muốn đặt mìn thành phố.”
“Sau đấy nói với Khrushchev là cút cha hắn đi,” Stalin trả lời.” (Maseo. Nguyên văn: fuck off)
“Chúng ta phải chân thành cảm ơn pháo binh và những người lính. Các pháo đài của họ thật là tệ hại.”
Sự thiếu hụt các công trình phòng thủ tại Stalingrad là vấn đề duy nhất được tất cả các chỉ huy cao cấp đồng ý. Chuikov phát hiện ra rằng các chiến lũy có thể bị xô đổ dễ dàng chỉ bằng xe tải. Gurov chỉ huy Ctrị Tập đoàn quân 62 nói rằng chẳng có 1 pháo đài nào tồn tại trong thực tế, và Tham mưu trưởng Krylov thì nói những cái được gọi là pháo đài đó thật nực cười. “Trong việc phòng thủ Stalingrad,” Chuikov sau này kể với Grossman, “các viên sư trưởng trông cậy vào máu hơn là vào dây thép gai.”
Chuikov đã trở thành người mà Grossman hiểu rất rõ trong suốt cuộc chiến, viên tướng này cũng thích giảng giải về kinh nghiệm trước đây của ông và vai trò của ông ở Stalingrad. “Tôi đã chỉ huy 1 trung đoàn khi còn ở tuổi 15,” ông kể cho Grossman về thời ông tham gia Nội chiến Nga. “Tôi cũng từng là chỉ huy nhóm cố vấn cho Tưởng Giới Thạch,” Chuikov nói thêm khi đang kể về năm 1941. Ông ko đề cập đến chuyện việc ở Trung Quốc chứ ko có mặt trong mùa hè thảm họa khi cuộc chiến bắt đầu là 1 thuận lợi lớn.
Tập đoàn quân của Chuikov ko chỉ mất tinh thần và thiệt hại nặng. Chỉ còn lại dưới 20.000 người, Tập đoàn quân này yếu hơn hẳn đối phương cả về quân số lẫn trang bị tại các khu vực then chốt ở trung tâm Stalingrad. Tại đây quân Đức có 4 sư bộ binh, 2 sư thiết giáp và 1 sư cơ giới đánh từ phía tây tới nhằm hướng sông Volga. 2 mục tiêu then chốt của chúng là Mamaev Kurgan, 1 chiến lũy thời cổ của người Tartar nằm trên đồi cao 102m (thường gọi là Điểm cao 102), và bến phà qua sông Volga nằm ngay gần Quảng trường Đỏ (của Stalingrad). Chuikov tới bến phà này vào đêm 12/9 ngay sau khi được Yeremenko và Khrushchev bổ nhiệm làm chỉ huy Tập đoàn quân 62.
Nhờ ánh sáng từ những ngôi nhà đang cháy, ông tới được Mamaev Kurgan nơi sở chỉ huy Tập đoàn quân 62 vừa được thiết lập tạm thời. Tình hình đã trở nên tuyệt vọng hơn cả những gì ông từng lo sợ. “Tôi nhìn Mamaev Kurgan mà như trong mơ,” Chuikov sau này kể với Grossman như vậy.
Dưới quyền chỉ huy của ông lúc này chỉ còn 1 đơn vị duy nhất chưa bị sứt mẻ là Sư 10 Bộ binh NKVD của Đại tá Sarayev, nhưng các đơn vị của nó nằm rải rác và Sarayev, 1 sĩ quan nằm trong hệ thống ngành dọc của NKVD, ko sẵn sàng đưa người của mình nằm dưới sự quản lý của Hồng quân. Gurov, chỉ huy Ctrị Tập đoàn quân của Chuikov, đã phê phán kịch liệt sư đoàn NKVD này.
“Sư đoàn của Sarayev nằm rải rác trên toàn mặt trận và vì thế trên thực tế chẳng chịu sự quản lý nào. Sư đoàn của Sarayev đã ko hoàn thành nhiệm vụ. Nó chẳng bảo vệ các vị trí phòng thủ đã được giao, cũng ko giữ gìn được trật tự trong thành phố.”
Trong những năm trước, chẳng viên chỉ huy quân đội nào đủ can đảm đối mặt với 1 sĩ quan của Beria. Nhưng Chuikov đang đối mặt với thảm họa rồi, ông ko e ngại chuyện đó nữa. Hiển nhiên ông đã đe dọa Sarayev về cơn giận dữ của Stalin nếu thành phố thất thủ sẽ dẫn đến điều gì. Sarayev đã tuân lệnh và bố trí 1 trong các trung đoàn của mình án ngữ trước bến phà sống còn theo đúng chỉ thị.
Chỉ sau này Grossman mới phát hiện Chuikov cũng là 1 viên chỉ huy sẵn sàng nện thuộc cấp khi nổi điên. Thực ra Chuikov là người tàn nhẫn, sẵn sàng hành quyết từ 1 lữ trưởng ko hoàn thành nhiệm vụ đến 1 lính trơn lùi bước trong trận đánh, nhưng lòng dũng cảm của ông thì khỏi phải bàn.
“1 chỉ huy cần phải hiểu rằng thà mất đầu còn hơn cúi người tránh 1 viên đạn Đức. Binh lính sẽ ghi nhận những điều đó.”
“Nhiệm vụ đầu tiên là phải làm cho các chỉ huy dưới quyền thấm nhuần tư tưởng rằng con quỷ ko quá đáng sợ như cách nó được vẽ ra.”
“Trước hết là bạn đã ở đây, và chẳng có đường nào thoát trừ phi bạn mất đầu hay mất chân … Mọi người đều biết ai quay đầu chạy sẽ bị bắn tại chỗ. Cái đó còn đáng sợ hơn bọn Đức nhiều … Vâng, cũng còn nhiệt huyết Nga nữa. Chúng tôi đã chọn 1 chiến thuật phản công. Chúng tôi tấn công lại khi chúng đã mỏi mệt vì tấn công chúng tôi.”
Trong các cuốn hồi ký của mình, Chuikov thẳng thắn thừa nhận khi bảo vệ Stalingrad ông đã tuân theo nguyên tắc “Thời gian là xương máu”. Ông phải ngăn quân Đức lại bằng mọi giá và điều đó có nghĩa là ném các trung đoàn và sư đoàn vừa mới tới vào các trận đánh ác liệt trong thành phố ngay khi họ vừa đặt chân sang bờ đông và họ phải sẵn sàng xung trận khi vẫn còn ở trên phà qua sông.
Cuộc tổng tấn công vào thành phố của Tập đoàn quân 6 Đức mở màn ngay trước bình minh ngày 13/9. Chuikov thậm chí ko đủ thời gian để gặp các chỉ huy đơn vị trong đội hình Tập đoàn quân vì Sư 295 Bộ binh Đức đã tiến thẳng đến Mamaev Kurgan. 2 sư bộ binh khác nhằm hướng nhà ga trung tâm và bến phà. Chuikov có lẽ chỉ có thể quan sát những gì đang diễn ra từ dưới hào bằng kính tiềm vọng.
Tối hôm đó, Tổng hành dinh của Quốc trưởng (Führer) chúc mừng Sư 71 Bộ binh Đức đã tiến thành công vào trung tâm thành phố. Stalin tại Kremlin cũng nghe được tin này khi Yeremenko gọi điện thoại thông báo đồng thời cảnh báo rằng 1 cuộc tấn công lớn khác có lẽ sẽ được quân Đức tiếp tục tiến hành vào ngày mai. Stalin quay sang nói với tướng Vasilevsky. “Lệnh cho Sư 13 Cận vệ của Rodimtsev ngay lập tức vượt sông Volga và tìm xem còn đơn vị nào khác có thể gửi tiếp đi ko.” Zhukov lúc này đang ở đó nghiền ngẫm bản đồ khu vực chiến sự cũng được lệnh bay trở lại Stalingrad ngay lập tức. Ko ai còn nghi ngờ rằng thời điểm khủng hoảng đã đến.
Sở chỉ huy Tập đoàn quân của Chuikov giờ lại hóa thành nằm ngay trên tuyến đầu sau cuộc tấn công hôm trước vào Mamaev Kurgan. Vì vậy sớm hôm sau sở chỉ huy phải chuyển về phía nam, tới đường hầm qua đèo Tsaritsa nơi Yeremenko và Khrushchev vừa rời khỏi. Gurov nói với Grossman: “Khi chúng tôi rời khỏi Điểm cao 102, chúng tôi mơ hồ cảm thấy đó là điều tồi tệ nhất. Chúng tôi ko rõ tất cả sẽ kết thúc như thế nào.”
Trận đánh ngày 14/9 diễn ra 1 cách tồi tệ đối với phía phòng thủ. Sư 295 Bộ binh Đức chiếm đồi Mamaev Kurgan đúng như Chuikov đã lo ngại, nhưng mối đe dọa lớn nhất đến từ trung tâm thành phố, nơi 1 trong các trung đoàn NKVD của Sarayev bị ném vào 1 cuộc phản công đánh vào nhà ga trung tâm. Trong ngày hôm đó nhà ga này đã đổi chủ nhiều lần.
1 sự kiện nổi bật tạo nên huyền thoại Stalingrad sau này là cuộc vượt sông Volga dưới làn đạn của Sư 13 Bộ binh Cận vệ do tướng Aleksandr Rodimtsev chỉ huy (*). Sư đoàn này đã nhanh chóng kiệt sức bởi cuộc vận động chiến này. Grossman mô tả lại cuộc tiến quân và cuộc đổ bộ lên bờ sông Volga qua lời kể của những người tham gia.
(*) Sư 13 Bộ binh Cận vệ được thành lập ngày 19/1/1942 từ Sư 87 Bộ binh. Tướng Aleksandr Ilyich Rodimtsev (1905 - 1977) đã từng được tặng Sao Vàng Anh hùng Liên Xô cho thành tích khi làm cố vấn quân sự trong cuộc Nội chiến Tây Ban Nha, đặc biệt là cho những đóng góp của ông trong Trận Guadalajara năm 1937, trong trận này các sư đoàn áo đen của Mussolini đã bị đánh cho thua chạy tán loạn.
Con đuờng ngoặt về hướng tây nam và chúng tôi bắt đầu gặp những cây thích và liễu. Những vườn táo trĩu quả trải ra xung quanh. Và khi sư đoàn đi về phía Volga, chúng tôi nhìn thấy những đám khói đen bốc cao. Ko ai có thể nhầm lẫn nó với bụi, đám khói hung hãn, chuyển động nhanh, lấp lánh ánh lửa và đen như hỏa ngục: đó là khói từ những kho nhiên liệu đang cháy bốc lên từ khu vực phía bắc thành phố. 1 mũi tên lớn đóng trên cành cây ghi “Điểm vượt sông”, nó chỉ thẳng ra sông Volga … Sư đoàn ko thể đợi tới đêm để vượt sông. Mọi người nhanh chóng tháo các bọc chứa vũ khí đạn dược, cả các bọc đường và xúc xích nữa.
Chiếc sà lan lắc lư trên sóng, các chiến sĩ sư đoàn bộ binh cảm thấy hoảng vì thấy quân địch ở khắp nơi, trên trời, bờ bên kia, trong khi họ phải đối đầu với chúng mà ko có cảm giác thoải mái vì được dẫm chân lên mặt đất. Ko khí trong vắt đến phát sợ, bầu trời trong xanh đến phát sợ, mặt trời sáng rực rỡ 1 cách ko thương xót còn mặt nước trôi bên dưới thì có vẻ quỷ quyệt và rất thiếu tin cậy. Chẳng ai cảm thấy mừng vì ko khí trong lành được, hơi mát của con sông như chọc vào lỗ mũi làm người ta phát bực, hơi thở mềm mại và ẩm ướt của Volga chạm vào làm những con mắt đỏ vằn máu. Các chiến sĩ trên các con phà, sà lan và xuồng máy đều im lặng. Ôi trời, sao lại có thứ ko khí ngột ngạt và những đám rác dày đặc trên mặt sông thế này nhỉ? Tại sao thứ khói xanh từ các hộp tạo khói ngụy trang lại trong veo thế nhỉ? Mọi cái đầu đều quay hết bên này đến bên kia với vẻ lo lắng. Mọi người đều liếc nhìn lên bầu trời.
“Nó đang bổ nhào, quân chấy rận!” Ai đó hét lên.
Bất thần, 1 cột nước cao màu xanh nhạt vọt lên cách chiếc sà lan độ 50m. Ngay sau đó là 1 cột nước nữa dựng lên rồi vỡ tan ra gần hơn nhiều, rồi cột thứ 3. Bom nổ ngay trên mặt nước, mặt sông Volga sủi ngầu bọt. Đạn bắt đầu bắn trúng thành sà lan, những người bị thương bật khóc khe khẽ dù đã cố dấu việc bị thương đó, sau đó là những phát đạn súng trường rít trên mặt nước.
1 khoảnh khắc khủng khiếp khi 1 viên đạn pháo lớn bắn trúng sườn 1 chiếc phà nhỏ. Ánh chớp lửa nhoáng lên, khói đen trùm lên chiếc phà, rồi sau đó mới nghe thấy tiếng nổ, ngay tiếp theo là tiếng thét thất thanh như thể tiếng thét đó sinh ra từ tiếng nổ vậy. Hàng nghìn người đã nhìn thấy những chiếc mũ sắt xanh của những người đang bơi quanh những mảnh gỗ vụn dập dềnh trên mặt nước.
Chuikov đã nói với Rodimtsev ai vượt được sang bờ tây trong chiều ngày 14/9 sẽ được nhận huân chương, đây là 1 hành động cực kỳ liều lĩnh vì quân của Rodimtsev sẽ phải bỏ lại toàn bộ trang thiết bị nặng, chỉ mang theo lựu đạn và vũ khí cá nhân. Rodimtsev đã kể lại chuyện này cho Grossman trong giai đoạn sau của trận đánh.
“Chúng tôi bắt đầu vượt sông vào 17h00 ngày 14/9, chuẩn bị vũ khí ngay trong lúc hành tiến. 1 chiếc sà lan bị phá hủy (vì bom) khi đang vượt sông; 41 người chết còn 20 người sống sót.”
Đã có rất nhiều bài viết về cuộc đổ bộ lên bờ sông Volga của Sư 13 Bộ binh Cận vệ, họ đã lao thẳng vào quân Đức khi chúng đã tiến chiếm được 1 đoạn bờ sông dài khoảng 200m. Nhưng Grossman còn được nghe về 1 nhiệm vụ đặc biệt giao cho 1 nhóm nhỏ gồm 6 chiến sĩ của sư đoàn.
Trung úy công binh Chermakov, các trung sĩ Dubovy và Bugaev cùng 3 lính Hồng quân Klimenko, Zhukov và Messereshvili nhận lệnh cho nổ tòa nhà kiên cố Ngân hàng Nhà nước. Mỗi người mang theo 25kg thuốc nổ, họ đã sang được bờ bên kia và cho nổ tung tòa nhà.
Chắc hẳn đã có những biểu hiện hèn nhát trong cuộc vượt sông này nhưng các báo cáo chính thức của phía Soviet luôn lấp liếm chuyện đó.
7 binh sĩ người Uzbek đã bị tuyên án tự gây thương tích cho bản thân. Tất cả đều bị bắn.
Kỳ công của Sư 13 Bộ binh Cận vệ đã thu hút sự chú ý lớn lao của giới truyền thông Soviet và cả thế giới. Rodimtsev đã khiến Chuikov ghen tức phát điên khi trở thành vị anh hùng nổi tiếng thế giới. Grossman tuy vậy lại quan tâm tới lòng dũng cảm của những người lính và sĩ quan cấp thấp hơn là những cuộc kèn cựa giữa các cấp chỉ huy. Ông đã thuyết phục được sở chỉ huy sư đoàn của Rodimtsev trao cho mình những báo cáo từ cấp dưới và ông đã mang theo chúng trong ba lô suốt cuộc chiến tranh. Ông đã trích lại các báo cáo này trong bài viết “Tsaritsyn - Stalingrad” và trong cuốn tiểu thuyết “Vì Chính Nghĩa” (For a Just Cause - Maseo tạm dịch).
Báo cáo
Thời gian: 11h30, 20/9/1942
Gửi: Đại úy Cận vệ Fedoseev - Tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn 1.
Xin báo cáo tình hình như sau: quân địch định bao vây đại đội tôi bằng cách tung 1 số lính trang bị tiểu liên đánh vào sau lưng chúng tôi. Tuy nhiên mọi cố gắng của chúng đều thất bại mặc dù quân chúng đông hơn nhiều. Các binh lính và sĩ quan của tôi đã thể hiện lòng can đảm và chủ nghĩa anh hùng khi đối mặt với bọn chó phát xít. Bọn Fritz sẽ ko bao giờ thành công chừng nào chưa dẫm được lên xác tôi. Các chiến sĩ Cận vệ ko bao giờ rút lui. Nhiều binh lính và sĩ quan đã hy sinh như những người anh hùng nhưng quân địch đã ko thể phá vỡ được tuyến phòng ngự quân ta. Hãy để cả nước biết rằng Đại đội 3 Bộ binh thuộc sư 13 Bộ binh Cận vệ sẽ ko để 1 tên chó má nào vượt qua được chừng nào Đại đội trưởng còn sống. May ra chúng sẽ chỉ qua được khi nào Đại đội trưởng chết hay bị thương nặng. Hiện Đại đội trưởng Đại đội 3 đang bị stress, cảm thấy ko được khỏe, tai điếc đặc, chóng mặt, chảy máu cam và cụt cả 2 chân. Mặc dù vậy những chiến sĩ Cận vệ, cụ thể ở đây là các Đại đội 2 và 3, sẽ ko rút lui. Chúng tôi sẽ chết như những người anh hùng vì thành phố của Stalin. Hãy để đất nước Soviet hóa thành mồ chôn quân địch. Đại đội trưởng Đại đội 3 Kolaganov đã tự tay giết 2 tên lính súng máy Fritz, chiếm được khẩu súng máy và các giấy tờ mà chúng tôi trình sở chỉ huy tiểu đoàn kèm theo đây.
Kolaganov (đã ký)
Tập đoàn quân 62 trong tình trạng thua kém triền miên về mặt lực lượng so với đối phương đã cố gắng làm những gì tốt nhất có thể, họ đã đã thiết lập được 1 vành đai phòng thủ nhỏ chưa từng thấy dọc theo bờ tây Volga. Rodimtsev nói với Grossman: "Chúng tôi chiến đấu mà ko có lực lượng dự bị. 1 tuyến phòng thủ mỏng dính, đó là tất cả những gì chúng tôi có."
Yeremenko cũng nói: "Tôi đang vã mồ hôi hột đây, bọn Đức ép rất mạnh mà quân ta thì được bố trí 1 cách thật là ngu ngốc. Tôi lúc nào cũng cảm thấy nóng ran người mặc dù vốn rất khoẻ mạnh. Chúng tôi vừa mới cho quân ăn ngay trong trận đánh xong. Thế đấy."
Gurov chỉ huy Ctrị Tập đoàn quân 62 chỉ ra 1 thực tế: "Có những ngày chúng tôi phải chuyển đi tới 2 - 3000 người bị thương."
Krylov tham mưu trưởng Tập đoàn quân 62 thì nói về phương thức điều hành trận đánh của quân Đức.
"Chúng tin rằng sử dụng hoả lực vượt trội sẽ làm quân ta choáng váng. Những trang bị nặng của chúng tỷ lệ nghịch với khả năng của những lính bộ binh Đức bình thường. Các sĩ quan chỉ huy cấp trung của quân Đức hoàn toàn thiếu khả năng sáng tạo.
"Những ngày đầu tháng 9 đặc biệt khó khăn, mọi thứ bắt đầu trở nên hỗn loạn. Vào các buổi tối tôi có thể phải tự mình đi truyền lệnh cho các binh sĩ còn ban ngày tôi chỉ làm cái việc đếm từng phút chờ đến khi đêm xuống."
Người Đức biết rất rõ rằng điều cần thiết duy nhất là phải phá vỡ chiến tuyến của Tập đoàn quân 62 dọc theo sông Volga, sử dụng cả pháo binh lẫn Luftwaffe (Ko quân). Đó là lý do dẫn tới vô số cuộc tấn công qua lại để giành giật Mamaev Kurgan, ngọn đồi mà từ đó có thể bắn thẳng tới bất kỳ vị trí nào trên mặt đất bằng phẳng xung quanh. Các binh sĩ vận tải đường sông mà trong đó rất nhiều người vốn là dân thuyền chài Volga đã phải đối mặt với nguy hiểm nhiều ko kém các frontoviki (lính tuyến đầu) trên bờ tây.
Sĩ quan phụ trách bến phà, trung tá Puzyrevsky, đã ở đây từ 2 tuần nay. Người tiền nhiệm của ông, đại uý Eziev, đã hy sinh vì sà lan trúng bom. Perminov, chỉ huy quân lực, đã ở đây được 57 ngày. Tiểu đoàn phó Ilin đã được máy bay đem đi sau khi bị thương nặng. Smerechinsky là sĩ quan phụ trách bến phà trước Eziev cũng đã hy sinh. Tiểu đoàn trưởng, người đã chỉ huy việc thiết lập điểm vượt sông Volga này, hy sinh vì trúng mảnh bom. Sholom Akselrod, chỉ huy trung đội kỹ thuật, hy sinh vì sà lan trúng thuỷ lôi. Politruk (Chính uỷ) Samotorkin bị thương vì mìn, politruk Ishkin bị 1 quả đạn pháo tiện mất 1 chân.
Đối với các đơn vị tăng cường đang được tập trung ở phía đối diện bờ tây, 1300m nước bề rộng con sông đủ để làm bất cứ ai cũng phải kinh. Nhưng Chuikov với kiểu bông đùa quái ác đặc trưng đã chỉ ra rằng vượt sông mới chỉ là bắt đầu.
"Khi tiến vào đây, các binh sĩ thường bảo: "Ta đang vào địa ngục." Và sau khi đã ở đây 1 - 2 ngày, họ nói: "Ko, đây ko phải địa ngục, đây là nơi còn tệ hơn địa ngục gấp 10 lần." Điều đó tạo nên lòng căm thù cao độ đến mức phi nhân tính nhằm vào bọn Đức. Vài lính Hồng quân được giao áp giải 1 tù binh nhưng hắn đã ko bao giờ đến được đích, tên tù binh xấu số đã chết vì sợ hãi. "Mày có muốn uống chút nước sông Volga ko?" Họ hỏi, rồi ấn mặt hắn xuống nước 10 - 12 lần."
Sự đau khổ có vẻ đã trở thành số phận của toàn nhân loại. Cuối tháng đó, Grossman nhận được thư vợ, Olga Mikhailovna, kể về cái chết vì bom của Misha, con riêng của bà. Ông đã viết 1 bức thư trả lời vụng về hy vọng làm nhẹ bớt sự tuyệt vọng của vợ.
Vợ của anh, những gì tốt đẹp nhất của anh. Hôm nay anh đã nhận được thư em mà ai đó vừa mang từ Moscow tới, nó làm anh đau đớn sâu sắc. Đừng để tinh thần suy sụp nhé Lyusenka. Đừng tuyệt vọng nhé. Có rất nhiều điều đau khổ xung quanh ta, anh đã thấy nó rất nhiều. Anh đã từng thấy những bà mẹ mất chồng và 3 con trong cuộc chiến này. Anh đã thấy nhiều người vợ mất chồng, mất con. Anh đã thấy những phụ nữ có con nhỏ bị chết trong các trận oanh tạc, và tất cả những phụ nữ đó đều ko để mình tuyệt vọng. Họ vẫn làm việc, trông đợi chiến thắng, họ ko để mất tinh thần. Họ đã tiếp tục sống dù điều đó rất khó khăn. Hãy mạnh mẽ như họ, người yêu của anh, giữ vững ... Em còn có anh và Fedya, em còn tình yêu và cuộc sống của em có ý nghĩa với nhiều người.
Anh đã được đề nghị tặng thưởng Huân chương Sao Đỏ lần thứ 2 nhưng cũng như trước, điều đó chẳng có ý nghĩa gì. Anh đã lấy 1 bức thư từ 1 người lính đã hy sinh; nó được viết bằng nét chữ trẻ con nguệch ngoạc, cuối thư là những lời sau: "Con nhớ bố rất nhiều. Hãy trở về thăm con, con mong được nhìn thấy bố làm sao, dù chỉ 1h cũng được. Con đang viết bức thư này mà nước mắt rơi. Bố, về thăm con đi."
Grossman cũng viết cho bà vú già nói tiếng Đức của mình, Zhenni Genrikhovna Henrichson, người mà nhiều năm sau ông đã đưa vào cuốn tiểu thuyết "Cuộc đời và Số phận".
Chắc bà đã biết về nỗi đau khủng khiếp: Misha đã chết. Tai hoạ đã giáng xuống gia đình ta, Zhenni Genrikhovna ạh. Hãy viết thư cho tôi theo địa chỉ mới: Binh trạm 28, Đơn vị 1, V. S. Grossman (Đừng ghi nơi tôi ở trong mục địa chỉ). Bà có nghe gì về bố tôi ko? Ông đang ở đâu? Tôi ko có địa chỉ để viết thư cho ông.
Grossman ở điểm này đã cho thấy ông ko hề biết gì về việc người cháu trai, Yura Benash, 1 trung uý trẻ đang ở Stalingrad đã cố gắng liên lạc với ông sau khi đọc được những bài báo, đã hy sinh trong 1 trận đánh.
MƯỜI LĂM
HỌC VIỆN STALINGRAD
Chính Chuikov là người đã nghĩ ra thành ngữ Học viện Stalingrad về Chiến tranh đường phố. Ý định của Chuikov là giữ quân Đức trong tình trạng liên tục bận rộn. Ông lệnh cho binh sĩ đào hào gần vị trí địch hết mức có thể vì điều này sẽ làm Luftwaffe (Ko quân Đức), lực lượng nắm ưu thế tuyệt đối vào ban ngày, khó khăn hơn trong việc phân biệt giữa 2 đạo quân đang đối đầu nhau. Chuikov khoe với Grossman:
“Trong các trận ko kích quân ta và quân Đức nhiều khi chạy lao vào nhau và ẩn núp trong cùng 1 hố. Bọn Đức ko thể tấn công tuyến đầu quân ta từ trên ko. Ở Nhà máy Tháng Mười Đỏ chúng đã tự hủy diệt nguyên 1 sư đoàn của chính chúng.”
Grossman nhấn mạnh phương thức đánh áp sát này trong 1 bài viết lúc gần kết thúc trận đánh.
Đôi khi các chiến hào của tiểu đoàn đào cách quân địch chỉ 20m. Người lính gác có thể nghe thấy tiếng bước chân của quân địch trong hào của chúng và tiếng chúng cãi nhau khi chia đồ ăn. Anh còn có thể nghe thấy tiếng dậm chân của tên lính gác Đức trong đôi ủng rách của hắn suốt đêm. Mọi thứ ở đây đều có thể là 1 vật chuẩn, mỗi hòn đá cũng có thể là 1 mốc giới.
Cách để tiêu hao dần quân Đức là tổ chức những đợt tấn công đêm quy mô nhỏ khiến chúng ko thể ngủ được và đâm ra sợ bóng đêm, sử dụng những kỹ năng thợ săn của cánh lính gốc Sibêri. Các tay bắn tỉa cũng là 1 vũ khí tinh thần lợi hại giúp nâng cao sĩ khí của quân đội Soviet.
Chuikov có lẽ cũng là người sẵn sàng phung phí mạng sống binh sĩ như các tướng lĩnh Soviet khác, đặc biệt là trong những ngày đầu khi ông ra lệnh mở những đợt phản công nối tiếp nhau nhằm kìm hãm đà tiến của quân Đức – nhưng ông cũng nhanh chóng nhận ra lợi điểm của lối đánh áp sát, sử dụng những đơn vị nhỏ trang bị lựu đạn, tiểu liên, dao, xẻng đã được mài sắc và súng phun lửa. Phương thức chiến đấu hung hiểm này thích hợp với các cuộc đụng độ trong hầm ngầm, dưới cống rãnh và trong các đống đổ nát của các công trình, nó được người Đức gọi là Rattenkrieg (Chiến thuật Chuột cống – Maseo). Sau đó Chuikov có kể với Grossman khi trận đánh vẫn còn đang diễn ra:
“Chiến đấu tại Stalingrad là 1 niềm tự hào đối với mỗi người lính Nga. Các chiến sĩ ta đã chiếm và sử dụng vũ khí đạn dược Đức, quân ta ko chỉ chịu đựng các cuộc tấn công, quân ta còn phải tấn công lại. Rút lui có nghĩa là tiêu. Nếu bạn lùi lại, bạn sẽ bị bắn. Ngay cả tôi nếu làm thế, tôi cũng bị bắn ... 1 người lính nếu đã qua được 3 ngày tại đây sẽ được xếp vào diện kỳ cựu. Ở đây con người ta chỉ sống từng ngày. Các vũ khí cận chiến chưa bao giờ được sử dụng như cách chúng được dùng ở Stalingrad ... và người của tôi ko còn sợ xe tăng tí nào nữa, họ đều trở nên cực kỳ tháo vát, ngay cả các giáo sư cũng ko thể nghĩ ra nổi các mánh khóe như họ. Họ có thể đào những cái hầm tốt đến mức bạn ko hề phát hiện ra là có người trong đó dù đang dẫm ngay trên đầu họ. Có khi lính của tôi ở ngay tầng trên, vài tên Đức ở tầng dưới vặn máy hát, quân ta đục 1 lỗ trên sàn rồi bắn súng phun lửa qua đó ... “Oh, xin báo cáo, thưa đồng chí, ko hiểu gọi cái kiểu đánh này là gì nữa!”
Grossman bị mê hoặc vì cách mà những người lính theo dõi, học hỏi và hoàn thiện các kỹ năng mới để diệt địch. Ông đặc biệt quan tâm đến những người lính bắn tỉa và đã đi đến chỗ biết rất rõ 2 ngôi sao bắn tỉa của Stalingrad. Người thứ nhất là Vasily Zaitsev được lăng xê thành ngôi sao sáng nhất của hệ thống tuyên truyền Soviet - trở thành nhân vật do Jude Law đóng trong bộ phim “Enemy at the Gates” - vốn là 1 thủy thủ Hạm đội Thái Bình Dương có căn cứ tại Vladivostok, trở thành lính sư 284 gồm toàn dân Sibêri do tướng Nikolai Batyuk chỉ huy (*). Người thứ 2 là Anatoly Chekhov, Grossman đã làm phụ tá cho anh trong 1 vụ bắn tỉa để quan sát công việc của anh, là lính Sư 13 Bộ binh Cận vệ do Rodimtsev chỉ huy. Có lẽ chính vì sự đố kỵ của Chuikov với Rodimtsev mà những chiến công của Chekhov đã ko được báo giới nhắc đến nhiều như những chiến công của Zaitsev. Rodimtsev kể cho Grossman về Chekhov khi 2 người gặp nhau vào tháng 10. “Lính Hồng quân Chekhov đã giết được 35 tên phát xít trong chiến đấu. Tôi muốn cho anh ta nghỉ phép, anh ta đã giết được số lính Đức đủ để thưởng phép đến hết đời.” Grossman sau đó đã đi phỏng vấn Chekhov.
Anatoly Ivanovich Chekhov sinh năm 1923. “Gia đình tôi chuyển tới Kazan năm 1931, tôi đã đi học tại đó trong 7 năm. Sau đó bố tôi nghiện rượu và bỏ mẹ tôi cùng 2 người chị em gái. Tôi phải bỏ học mặc dù là học sinh đứng đầu lớp. Tôi rất thích môn địa lý, nhưng tôi vẫn phải thôi học ... Có 1 thông báo xuất hiện vào ngày 29/3/1942, và tôi tình nguyện vào học trường huấn luyện bắn tỉa. Thực ra tôi chưa từng bắn cái gì khi còn nhỏ, thậm chí kể cả súng cao su. Kinh nghiệm bắn súng đầu tiên của tôi là lần bắn bằng khẩu súng trường cỡ nòng nhỏ. Tôi đạt 9/50 điểm. Viên trung úy huấn luyện tỏ ra rất giận dữ: “Mục tiêu quá dễ dàng nhưng cậu bắn quá tệ. Chúng tôi ko thể làm gì với cậu.” Nhưng tôi ko mất tinh thần. Tôi bắt đầu học lý thuyết và các loại vũ khí. Sau đó trước tiên tôi luyện bắn với 1 khẩu súng trường thích hợp - nhắm vào ngực và vào đầu. Rồi tôi được cho 3 viên đạn và bắn trúng mục tiêu. Từ đó tôi trở thành người bắn giỏi nhất trường. Tôi tình nguyện ra mặt trận.
“Tôi muốn chính tay mình diệt địch. Đầu tiên tôi nghĩ đến điều đó khi đọc báo, tôi muốn nổi tiếng. Tôi đã học cách phán đoán khoảng cách bằng mắt, tôi ko cần 1 dụng cụ quang học nào. Cuốn sách ưa thích của tôi áh? Thực ra tôi đọc ko nhiều. Cha tôi nghiện rượu và ở gia đình tôi mọi thứ đều tan hoang, thậm chí đôi khi tôi còn ko phải làm việc nhà. Tôi chẳng bao giờ có được góc của riêng mình.
“Tôi tham gia vào cuộc tấn công sáng ngày 15/9 đánh lên đồi Mamaev Kurgan ... Tôi đã có cảm tưởng đây ko phải là 1 cuộc chiến, tôi thường dạy cho tiểu đội mình môn ngụy trang trên chiến địa và bắn. Chúng tôi hét lên “Urra!” và chạy lên khoảng 200m. Sau đó súng máy địch khai hỏa nhưng ko làm chúng tôi dừng công việc được. Tôi trườn đi như đã được dạy và bị trượt 1 cái, tôi đã rơi vào 1 cái bẫy. Có 3 ổ súng máy và 1 chiếc xe tăng quanh tôi. Tôi đã tự giao cho mình 1 mục tiêu, vì vậy tôi ko quay lại nhìn phía sau, tôi biết tiểu đội sẽ ko bỏ rơi tôi. Tôi bắn thẳng luôn ở khoảng cách chỉ 5m vào mấy tên lính súng máy Đức đang nằm bên sườn và hạ cả 2 tên. Sau đó 3 khẩu súng máy, 1 chiếc tăng và 1 khẩu cối bắn đầu bắn vào tôi cùng lúc. Tôi và 4 lính trong tiểu đội nằm dưới 1 hố bom từ 9h sáng tới 8h tối ... Sau đó tôi được thăng chức chỉ huy 1 trung đội cối.
(*) Sư 284 Bộ binh trở thành Sư 79 Bộ binh Cận vệ ngày 1/3/1943 để tưởng thưởng cho những đóng góp của đơn vị này tại Stalingrad.
“Khi tôi được giao 1 khẩu súng bắn tỉa, tôi chọn vị trí trên tầng 5 của 1 tòa nhà. Có 1 bức tường và bóng của nó che chở cho tôi. Khi mặt trời lên tôi trườn xuống tầng dưới. Từ đó tôi có thể nhìn thấy ngôi nhà của bọn Đức cách đó chừng 100m, tại có những tên lính sử dụng tiểu liên và lính súng máy, chúng ở đó suốt cả ngày, ngồi dưới tầng hầm. Tôi bò tới đó vào 4h sáng, lúc đó trời bắt đầu hửng sáng. Tên Fritz (Đức) đầu tiên chạy ra lấy nước cho chỉ huy rửa mặt. Mặt trời lúc này đang mọc, hắn chạy phía bên sườn tôi. Tôi ko nhìn nhiều vào mặt những tên Đức chạy ra mà chú ý đến quân phục. Bọn chỉ huy mặc quần, jacket, đội mũ và ko đeo thắt lưng, lính trơn đi ủng.
“Tôi ngồi trên bậc cầu thang, súng trường đặt sau 1 lò nướng để khói sẽ được gió cuốn chạy dọc theo bức tường chờ đến khi chúng đi ra. Tôi hạ 9 tên trong ngày đầu tiên và 17 tên trong 2 ngày. Chúng đưa phụ nữ tới, tôi hạ luôn 2 người trong số 5 phụ nữ (*). Sang ngày thứ 3 tôi nhìn thấy 1 cái lỗ châu mai! 1 tên bắn tỉa. Tôi rình và bắn, hắn ngã xuống và gào khóc bằng tiếng Đức. Bọn Đức phải dừng chuyển mìn tới và đi lấy nước. Tôi đã diệt được 40 tên Đức trong 8 ngày.
“Khi trời nắng, bóng của bức tường sẽ động đậy nếu tôi di chuyển, vì vậy khi đó tôi ko bắn. 1 tên bắn tỉa mới xuất hiện bên 1 cửa sổ để mở ... Tên bắn tỉa này đã dồn tôi đến tận chân tường, hắn đã bắn tôi 4 lần, nhưng trượt. Tất nhiên phải bỏ vị trí này thì thật là tiếc. Vậy là chúng đã ko bao giờ uống nổi nước sông Volga. Chúng cần nước, tài liệu, đồ ăn và đạn dược ... riêng nước là chúng phải uống thứ nước bẩn thỉu chở bằng xe lửa tới. chúng đi lấy nước bằng xô vào mỗi buổi sáng.
Bắn 1 tên địch đang chạy với tôi còn dễ hơn, dễ hơn cho cả tay tôi lẫn mắt tôi, thà hắn đứng yên bắn còn khó hơn. Tên đầu tiên xuất hiện, hắn bước đi khoảng 5m. Tôi ngắm bắn hắn chệch 1 chút về phía trước, độ 4cm trước mũi hắn.
“Khi lần đầu tiên được giao khẩu súng bắn tỉa, tôi đã ko thể thuyết phục bản thân giết 1 mạng sống: 1 tên Đức yên 1 chỗ nói chuyện suốt 4 phút, và tôi đã để hắn đi thoát. Khi tôi giết tên đầu tiên, hắn ngã xuống ngay, 1 tên khác chạy ra cúi xuống tên vừa chết, tôi hạ nốt ... Khi giết người lần đầu cả người tôi run lên: người đàn ông đó chỉ muốn ra lấy chút nước! ... Tôi cảm thấy kinh hoàng: Mình đã giết 1 con người! Sau đó tôi nhớ ra những người đó là ai và bắt đầu giết chóc chúng ko áy náy.
“Tòa nhà đối diện đã sụp đổ chỉ còn lại từ tầng 2 trở xuống. Vài tên Đức ngồi trên bậc cầu thang, số khác trên tầng 2. Đây đó có những chiếc két sắt, tất cả tiền bên trong đã bị cháy. (**)
“Có vài cô gái đang sống trên đồi Kurgan. Họ đốt lửa để nấu nướng. Mấy sĩ quan Đức trông chừng họ.
“Thỉnh thoảng bạn được nhìn thấy chuyện này: 1 tên Fritz đang đi thì 1 con chó cách hắn 1 vài bước nhằm vào hắn mà sủa, hắn bèn giết chết con chó. Nếu bạn nghe thấy tiếng chó sủa trong đêm thì có nghĩa là bọn Fritz đang làm gì đó, đi lang thang chẳng hạn, và làm chó sủa.
“Tôi đã trở thành 1 thứ quái vật của loài người: Tôi giết, tôi căm thù như thể đó là những việc bình thường trong đời. Tôi đã giết bốn chục mạng người, 3 là bắn vào ngực, còn lại đều trúng đầu. Khi bạn bắn, cái đầu hắn lập tức giật ra sau hoặc sang bên, hắn buông rơi vũ khí và gục xuống ... Pchelintsev cũng vậy, anh ta cũng đã rất lấy làm tiếc khi giết tên thứ nhất và thứ 2, “Tôi phải làm sao đây?”
“Tôi đã giết 2 sĩ quan, 1 trên đồi, tên còn lại bên cạnh tòa nhà Ngân hàng Nhà nước. Hắn khoác áo trắng, tất cả đám lính Đức đều dậm chân đứng nghiêm chào hắn. Hắn đang đi kiểm tra chúng, khi hắn muốn băng qua phố tôi bắn hắn trúng giữa sọ, hắn ngã lăn ra ngay lập tức, giơ cả 2 chân đi giày sĩ quan lên.
“Thỉnh thoảng tôi rời khỏi hầm vào buổi tối, nhìn quanh và trái tim ca hát. Tôi thích đi dạo độ nửa giờ trong thành phố mà vẫn sống. Tôi đi ra và nghĩ: Sông Volga thật êm đềm, vậy sao những điều khủng khiếp này lại xảy ra ở đây. Chúng tôi có 1 người là dân Stalingrad gốc, tôi thường hỏi anh ta đâu là những câu lạc bộ, nhà hát và đi tản bộ bên bờ Volga thì thế nào.”
Ban biên tập tờ Krasnaya Zvezda có lẽ tin tưởng vào bài viết gửi theo đường điện tín nói trên hơn là bản thông cáo báo chí dài 400 trang được gửi tới từ Stavka, Bộ Tổng tham mưu trực thuộc điện Kremlin. Grossman đã thuyết phục được tổ điện báo viên của Phương diện quân Stalingrad chuyển bài viết về Moscow. Họ đồng ý với lời yêu cầu giữa trận đánh Stalingrad này vì người yêu cầu, tức là Grossman, đã chứng minh được ông quan tâm đến những gì họ làm đến thế nào. Ortenberg là người đầu tiên nhận ra hiệu quả và cả rủi ro trong các đề tài mà Grossman bỏ công viết ra. “Chắc chắn là Grossman đã theo sát Chekhov,” Ortenberg viết, “và đã chia sẻ khó khăn nguy hiểm với anh ta trong chiến đấu, Grossman đã thành công trong việc xây dựng 1 hình tượng chiến binh đầy ý nghĩa, đào sâu vào thế giới bên trong anh ta với đầy đủ suy nghĩ cũng như tình cảm.”
Những chiến công của các tay bắn tỉa được kể lại và khâm phục gần giống như với 1 cầu thủ bóng đá. Mỗi sư đoàn đều tự hào về ngôi sao của mình, và những người lính Siberi trong Sư 284 Bộ binh đều tin rằng họ có được ngôi sao sáng chói nhất, Vasily Zaitsev, trong đội hình của mình. Tuy nhiên áp lực đối với bộ máy tuyên truyền phải thổi phồng thành tích đạt được của những người dẫn đầu phong trào thi đua giết giặc trong trận chiến đô thị này khiến những kết quả họ đạt được có phần hơi đáng ngờ.
(*) Ko có phụ nữ phục vụ trong quân đội Đức tại tiền tuyến, vì vậy chắc đó là những thường dân Nga được tuyển mộ hoặc bị bắt buộc phục vụ cho quân Đức. Theo lệnh của Stalin, họ bị coi là phản quốc kể cả do bị ép buộc mà phải phục vụ tại các hỏa điểm của quân Đức.
(**) Trong bài báo trên tờ Krasnaya Zvezda, Grossman đã thêm vào 1 số chi tiết: “Thỉnh thoảng mọi thứ bỗng trở nên câm lặng, có thể nghe thấy cả tiếng những mảnh vữa rơi trong căn nhà đối diện nơi bọn Đức đang đóng, nghe được tiếng chúng nói chuyện hoặc bước đi. Và thỉnh thoảng bom đạn nổ dữ dội đến mức phải ghé vào tai đồng đội mà gào to hết mức có thể, vậy mà đồng đội vẫn ra hiệu: “Tôi ko thể nghe thấy gì hết.”
Zaitsev là thứ cần được bảo tồn, các binh sĩ sư đoàn nói về anh: “Zaitsev của chúng tôi là người khiêm tốn và cầu tiến. Anh ấy đã giết 225 tên Đức.” (*) Các tay bắn tỉa khác do anh đào tạo được gọi là “thỏ con”. (**) Batyuk nói: “Họ nghe lời anh ta ngoan ngoãn như những chú chuột nhỏ. Khi anh ta hỏi: “Tôi nói có đúng ko, các đồng chí?” Mọi người đều trả lời: “Vâng, thưa đồng chí Vasily Ivanovich.””
Có 1 đoạn văn ấn tượng trong sổ ghi chép của Grossman dù nó khó được kiểm chứng:
Murashev và trực ban y tế Zaitsev bị kết án tử hình. Murashev vì tự bắn vào tay còn người kia vì đã bắn 1 phi công nổi tiếng khi anh ta bị rơi máy bay và phải nhảy dù. Cả 2 đều được giảm án, và giờ cả 2 đều là những tay bắn tỉa hạng nhất ở Stalingrad. (Murashev mới có 19 tuổi.)
Vasily Zaitsev là tay bắn tỉa nổi tiếng duy nhất mang tên này ở Stalingrad và ko có tài liệu nào khác cho biết anh ta từng là trực ban y tế hay từng bắn hạ 1 “phi công nổi tiếng” đang nhảy dù. Có lẽ Grossman là người duy nhất ghi chép lại câu chuyện này trước khi bộ máy tuyên truyền Soviet viết lại về cuộc đời của Zaitsev thành 1 huyền thoại.
Giống như những tay bắn tỉa khác, Zaitsev có vẻ tự hào khi trút hận thù lên bất kỳ phụ nữ Nga nào hợp tác với bọn Đức.
Zaitsev đã bắn hạ 1 phụ nữ và 1 sĩ quan Đức: “Chúng ngã đè lên nhau.”
Nhiều lính bắn tỉa hàng đầu tại Stalingrad, bao gồm cả Chekhov và Zaitsev, đã báo cáo về các cuộc đọ sức tay đôi với các tay bắn tỉa Đức. Ko có gì ngạc nhiên là những cuộc chống bắn tỉa này được xem như bằng chứng cho biết ai là người giỏi nhất.
1 cuộc đấu 1 chọi 1 giữa Zaitsev và 1 tên bắn tỉa Đức: “Hắn đã hạ 3 người của ta. Hắn chờ đợi trong 15 phút nhưng phía chiến hào quân ta vẫn ko có ai xuất hiện, vì vậy hắn nhô người lên. Tôi nhận thấy hắn vẫn để súng trên mặt đất, vì vậy tôi đứng thẳng dậy. Hắn nhìn thấy tôi và chợt hiểu. Tôi siết cò!”
Những cuộc đọ sức ngắn ngủi nhưng chết chóc này có lẽ là 1 trong những thứ sau này được hệ thống tuyên tuyền Soviet ưa thích sử dụng. Nó được bơm thổi lên đến mức như 1 câu chuyện sử thi trong truyện dài về cuộc đấu tay đôi giữa Zaitsev và nhân vật ko xác định “Thiếu tá Koenig”, người đứng đầu “Trường bắn tỉa Berlin”, 1 ngôi trường cũng chưa được xác định. Nhân vật này đã bay tới Stalingrad để truy tìm và tiêu diệt Zaitsev, tuy nhiên ko có ghi chép nào tương tự như vậy từ phía Đức. Lời kể của Zaitsev rằng cả 2 người đã đứng thẳng lên cũng hết sức khó tin. Lính bắn tỉa của cả 2 bên đều đi từng cặp, và 1 lính bắn tỉa sau khi giành thắng lợi trong cuộc đối đầu mà lại tự cho phép mình có 1 cử chỉ khinh suất như vậy sẽ bị bắn hạ ngay lập tức.
Tướng Chuikov được xem là người đã đánh bóng câu chuyện này trong các cuốn hồi ký của ông, có lẽ ông là người muốn và giỏi lăng xê huyền thoại này nhất, đặc biệt là do Zaitsev thuộc sư đoàn của Batyuk chứ ko phải sư của Rodimtsev. Câu chuyện đã khiến Grossman bị hấp dẫn và có 1 chút thay đổi, ông đã viết lại nó trong cuốn “Cuộc đời và Số phận” dù trong cuốn tiểu thuyết này hầu hết những gì ông viết về cuộc đụng độ giữa các tay bắn tỉa đều giống với những ghi chép thời chiến của ông trong cuộc mít tinh giữa các tay bắn tỉa. Cuộc đối đầu mà Zaitsev đã chỉ kể lại rất sơ sài trong cuộc mít tinh này cuối cùng đã được Grossman viết trong cuốn tiểu thuyết là diễn ra trong “vài ngày”. Grossman lần này đã viết theo đúng bài của hệ thống tuyên truyền.
Các cuốn hồi ký sau này của Zaitsev (đương nhiên hầu hết là viết với sự hỗ trợ của các chuyên gia tuyên truyền Soviet) cũng kể lại 1 cách hấp dẫn như thế về cuộc đấu tay đôi kéo dài nhiều ngày này, nhưng rút cục cũng thiếu sức thuyết phục. 1 chiếc máy ngắm Đức hiện được trưng bày tại Bảo tàng Quân đội tại Moscow với tấm biển ghi “Lấy được từ xác 1 thiếu tá Đức”. Tất cả chỉ là lời kể, chưa có bất cứ 1 báo cáo nào xác nhận về cuộc đấu tay đôi nổi tiếng này được gửi từ bộ phận phụ trách Ctrị Phương diện quân Stalingrad về Moscow trong thời gian trận đánh diễn ra, mặc dù mọi chi tiết về các hoạt động của lính bắn tỉa đều được báo cáo để có thể sử dụng cho mục đích tuyên truyền.
Đại tá Batyuk cũng tự hào ko kém về các ngôi sao khác của ông:
“Trong sư đoàn tôi, chúng tôi có tay bắn tỉa giỏi nhất Phương diện quân Zaitsev; pháo thủ súng cối giỏi nhất Bezdidko, pháo thủ chống tăng giỏi nhất Shuklin, chỉ huy pháo đội 2, anh ta đã hạ 14 chiếc tăng chỉ bằng 1 khẩu pháo đặt trong công sự. Trường hợp Bezdidko được nhấn mạnh: “Anh ta bắn trúng mọi thứ bằng 1 khẩu cối vì anh ta cũng chỉ có mỗi 1 khẩu đó.”
“Ở đây ai cũng vui thích với tay xạ thủ cối hạng nặng “bắn tỉa” huyền thoại Bezdidko. Khi bọn Đức pháo kích bằng súng cối vào sở chỉ huy, sư trưởng bảo: “Ôi bọn chó đẻ, Bezdidko, sao ta ko dạy chúng cách bắn thế nào nhỉ?” Và Bezdidko, người ko bao giờ ngắm trượt, người có khả năng bắn chính xác đến từng centimet, mỉm cười và nheo mắt ngắm. Anh chàng Bezdidko có giọng nói du dương êm ái và nụ cười láu cá đặc Ukraina này đã được ghi nhận là hạ 1.305 tên Đức trong sổ thành tích, anh ta thường trêu chọc Shuklin, viên chỉ huy gầy nhẳng của Pháo đội 2.”
Bezdidko cũng xuất hiện trong buổi mít tinh của các tay bắn tỉa được kể lại trong cuốn “Cuộc đời và Số phận” và đoạn văn tả cuộc nói chuyện này hầu như ko thay đổi gì so với ghi chép gốc.
“Thưa đồng chí đại tá, tôi đã hạ được 5 tên Fritz hôm nay và dùng hết 4 quả đạn.”
“Bezdidko, nói cho mọi người nghe anh đã phá hủy cái nhà thổ dã chiến của bọn Đức như thế nào.”
“Tôi chỉ coi nó như 1 boongke,” Bezdidko khiêm tốn trả lời.
1 số cải tiến đã tỏ ra ko được thành công lắm. Zaitsev đã thử lắp ống ngắm bắn tỉa cho súng trường chống tăng, nghĩ rằng có thể nhờ đó bắn trúng vào lỗ châu mai boongke địch, nhưng chất lượng đạn thiếu ổn định khiến chẳng bao giờ có 2 viên đạn bắn được vào cùng 1 mục tiêu. Grossman ghi lại 1 sáng kiến khác trong thực tế còn kém hoàn hảo hơn.
Suy nghĩ của các binh sĩ Hồng quân cuối cùng xoay sang súng trường chống tăng ... dùng 1 cái bánh xe, buộc chặt vào cọc để có thể xoay 360 độ, họ đã bắn trúng 7 chiếc máy bay.
Đại úy tiểu đoàn trưởng Ilgachkin có 1 vấn đề: ko bao giờ có thể bắn trúng 1 chiếc máy bay bằng súng trường thường. Anh ta bèn làm 1 tính toán lý thuyết dựa trên tốc độ giả định của đạn súng trường chống tăng là 1.000m/giây, lập thành bảng, bổ sung thêm thông tin về những nơi máy bay có thể bay qua, vị trí bắn và khoảng cách. Bảng làm xong anh ta lập tức bắn trúng 1 chiếc máy bay. Sau đó anh đóng 1 cái cọc xuống đất để làm trục, đặt lên đó 1 bánh xe và gắn khẩu súng trường chống tăng lên các nan bánh xe.
(*) Ko thể kiểm chứng được số thành tích của các lính bắn tỉa Stalingrad, đặc biệt là của Zaitsev, vì chỉ có căn cứ là báo cáo của chính họ. Zaitsev chỉ trở thành lính bắn tỉa từ ngày 21/10, hôm đó anh ta liên tiếp bắn hạ được 3 tên địch. Đại tá Batyuk kể đã nhìn thấy việc đó và ra lệnh cho anh làm lính bắn tỉa. Vì vậy làm thế nào mà Zaitsev đã đạt được thành tích to lớn đến vậy khi mà giai đoạn ác liệt nhất của trận đánh đã qua là điều rất khó nói.
(**) “Zaitsev” tiếng Nga có nghĩa là thỏ rừng, vì thế các tay bắn tỉa do Zaitsev đào tạo được gọi là Zaichata, tức là “Thỏ con”.
Batyuk cũng kể lại bọn Đức đã dùng radio để than vãn hoặc đơn giản là đùa cợt như thế nào.
"Ê Rus (bọn Nga), ăn tối chưa? ... Tao đã xơi phó mát, tao cũng đã xơi cả trứng nữa, Rus ạh. Nhưng ko phải là hôm nay, hôm nay tao chưa ăn gì."
"Ê Rus, tao đang định đi lấy nước. Có bắn thì bắn vào chân tao nhé, đừng bắn vào đầu. Tao còn có con, tao còn có mẹ."
"Ê Rus, chúng mày có muốn đổi 1 thằng Ukbek lấy 1 thằng Rumani ko?" (*)
Batyuk nối tiếng trong giới binh sĩ với biệt danh "Batyuk đạn bắn ko thủng" vì là 1 trong những vị chỉ huy tỏ ra hoàn toàn ko sợ nguy hiểm.
Batyuk: "Trong cái boongke này, cánh cửa thường bật vào trong và đổ ập lên bàn". Khi bọn Đức nã pháo vào hầm chỉ huy pháo binh, Batyuk đứng ngoài cửa hầm mình vừa cười vừa giả vờ chỉnh đường đạn cho chúng: "Lệch phải chút, lệch trái chút."
Pháo binh, như Chuikov đã nhận thấy ngay khi trận đánh bắt đầu, có lẽ là niềm hy vọng duy nhất. Khi khu vực còn giữ được trên bờ tây trở nên quá nhỏ để triển khai pháo hạng nặng giữa những toà nhà đổ nát, Chuikov đã cho rút toàn bộ đại bác và lựu pháo trên 76mm qua bờ đông. Điểm mấu chốt là các sĩ quan tiền sát pháo của mỗi pháo đội vẫn ở lại, lẩn lút trong những toà nhà cao y như lính bắn tỉa. Họ thay phiên nhau bám mục tiêu để gửi các thông tin chi tiết về cho pháo đội của mình bằng radio hoặc bằng đường liên lạc hữu tuyến. "Pháo binh trên mặt trận chẳng khác gì diều hâu," tướng Yeremenko chăm chú nhìn Grossman mà nói, nhưng ông cũng ko định nói láo về mối nguy hiểm thường trực do "friendly fire" (quân ta bắn quân mình - Maseo). "Ở Stalingrad, khi pháo binh ta bắn trúng quân nhà họ chỉ biết cười chua chát: "Chúng tôi đã đến đây, mặt trận thứ 2 cuối cùng cũng đã mở.""
Chiến thuật chính của Chuikov để giảm sức tấn công trong các cuộc xung phong ồ ạt của người Đức là thiết lập các "tuyến đê" bằng các toà nhà có quân phòng thủ bên trong. Các nhóm xung kích sẽ tập kích trong đêm vào mục tiêu định trước, sau đó cũng cố vị trí chiếm được.
Đánh chiếm 1 ngôi nhà. Nhóm xung kích gồm 10 người, theo sau là nhóm tăng cường, họ mang theo lương thực và đạn dược dùng cho 6 ngày. Chiếm xong họ đào hào để phòng trường hợp bị bao vây.
Tiếp tế cho các đơn vị tuyến đầu hoặc bị cô lập là vấn đề chính. Tập đoàn quân 62 thường sử dụng những chiếc máy bay 2 tầng cánh U-2, phần lớn do các nữ phi công trẻ lái. Họ thường tắt máy, lượn êm trên chiến hào Đức để thả bom hoặc trên các vị trí quân Nga để thả đồ tiếp tế.
Suốt đêm, đám U-2 thả lương thực xuống cho quân ta. Chúng tôi đánh dấu tuyến đầu bằng những cây đèn dầu mà những người lính thắp dưới đáy hào. Đại đội trưởng Khrennikov 1 lần quên làm điều đó và bất thần nghe 1 giọng khàn đục vọng xuống từ trên bầu trời đêm: "Hey, Khren! (**) Mày có thắp đèn lên ko thì bảo?" Đó là tiếng viên phi công, lúc đó anh ta đang tắt máy. Khrennikov kể anh đã phát hoảng vì nghe có tiếng gọi đúng tên mình từ trên trời.
(*) Dân Uzbek có tiếng là những người lính kém tin tưởng nhất trong Hồng quân trong khi quân Đức cũng công khai xem thường những đồng minh Rumani trong các Tập đoàn quân Rumani 1 và 3, các tập đoàn quân này giúp bảo vệ sườn tây bắc và sườn nam của Tập đoàn quân 6 Đức tại Stalingrad.
(**) "Khren" trong tiếng Nga có nghĩa là cây cải ngựa nhưng nó thường bị đọc trại đi thành lời chửi gần giống với "ĐM" (nguyên văn "motherfucker"). Vì thế khi người phi công quát: "Hey, ĐM mày!" Khrennikov cảm thấy kinh ngạc vì nghĩ tay phi công gọi đúng tên anh ta.
Tướng Rodimtsev nói với Grossman:
Sư đoàn tôi và bọn Đức đóng trong những tòa nhà liền kề nhau y như những quân cờ trên 1 bàn cờ ... họ sống trong hầm, các căn phòng hay đường hào ... 4 người lính đã giữ được 1 căn nhà trong 14 ngày, cứ luân phiên 2 người đi kiếm lương thực, 2 người còn lại canh giữ ngôi nhà ... Việc trinh sát trở nên cực kỳ phức tạp ... Mọi khẩu đội chống tăng đều chiến đấu đến khi thương vong đến người cuối cùng ... Tâm trạng mọi người tuy đều mệt mỏi nhưng tinh thần vẫn cao ...
Rận – chúng tôi dùng những chiếc bếp dầu hoặc bàn là để trục chúng ra. Cách này có thể giải thoát chúng tôi khỏi lũ rận.
Và 1 lần nữa, phong trào chửi bới trêu chọc lẫn nhau lại được phát động mạnh giữa các chiến hào hoặc thậm chí giữa các phòng trong cùng 1 ngôi nhà, chúng thường bắt đầu bằng câu đùa theo người Đức là rất hài hước: “Rus, đưa mũ cho tao, tao sẽ cho mày khẩu tiểu liên!”
Grossman hơi bối rối vì “sự lo lắng kỳ lạ” của các binh lính và sĩ quan khi nói chuyện với mình. Chúng có vẻ rất khác thường nếu so sánh với những nỗi lo của người bình thường.
“Ngoài kia họ đang nói gì về ta? Họ nghĩ gì về ta? Có quá ít sự chia sẻ.
Các tướng lĩnh đặc biệt là Yeremenko thích phán về chiến tranh và đời lính nhưng họ thường lái chủ đề về bản thân họ.
“Người trẻ có ít kinh nghiệm sống, họ giống như trẻ con. Họ chết tại nơi họ được đưa tới ... Những người lính thông minh nhất có độ tuổi từ 25 đến 30. Những người lính già hơn thường ko khỏe mạnh và hay lo lắng dằn vặt về gia đình của họ. Tôi cũng khổ sở với cái chân này. Tôi đã bị quá sức hồi ở Smolensk, và sau đó là ở Phương diện quân Bryansk. 1 lần ở Phương diện quân Tây Nam tôi đã ko ngủ suốt 5 ngày.
“Vâng, khi 2 viên tướng đánh nhau, 1 nhất định sẽ trở thành người khôn và kẻ kia hóa thành thằng ngu. Mặc dù thực ra cả 2 đều ngu,” ông vừa nói thêm vừa cười.
Chính ủy Tập đoàn quân 62 Gurov thường nói chuyện rất lôi cuốn.
“Những người lính đều giống nhau, chỉ có các chỉ huy là khác.”
Nếu có 1 nơi nào các vị chỉ huy Soviet chỉ có khả năng tác động rất nhỏ lên các hoạt động, nơi đó chính là bến phà sống còn qua sông Volga. Mọi thứ ở đây đều do các binh sĩ tiểu đoàn vận tải đường sông quyết định - phần lớn họ là dân thuyền chài và thủy thủ đến từ Yaroslavl trên sông Volga.
Tướng Rodimtsev nói cho Grossman hay quan điểm chính thống – đương nhiên là lạc quan.
“Chúng tôi đã trưng dụng tất cả tàu thuyền trên con sông này, giờ chúng tôi đã có cả 1 hạm đội: 27 tàu cá và tàu có động cơ. Chúng tôi đã kéo được 1 chiếc xuồng lớn từ dưới đáy sông Volga lên, nó bị chìm vì 1 phát đạn bắn thẳng. Sư đoàn tôi được tiếp phẩm đầy đủ: có thức ăn nóng, đồ lót, sôcôla và sữa đặc. Việc sơ tán người bị thương được tiến hành 1 cách mẫu mực. Chúng tôi có đủ nhu yếu phẩm cho 3 ngày.”
Tuy nhiên Grossman đã có đủ thời gian tiếp xúc với cánh thủy thủ, những người bị bắt lính, để vẽ nên 1 bức tranh chính xác hơn.
Sông Volga tại đây rộng 1.300m ... 1 con thuyền vừa trúng đạn, nó chở theo bột mì. Binh sĩ Voronin ko mất bình tĩnh. Anh đổ hết 1 bao bột mì ra, nhét vỏ bao vào 1 lỗ thủng và bịt những lỗ thủng khác bằng thứ hồ làm từ bột mì trộn với nước. Chiếc thuyền bị thủng tất cả 77 lỗ, anh lính đã trám tất cả các lỗ đó trong 1 ngày.
Mông của hạ sĩ Spiridonov đã bị xé nát, anh ta đang hỏi xin 1 ít rượu. 2 thương binh nặng Volkov và Lukyanov trốn viện, đi bộ suốt 30km thì bị bắt đưa trở lại quân y viện, khi bị đẩy lên ô tô để đưa về cả 2 đều gào lên: “Chúng tôi sẽ ko bỏ tiểu đoàn.”
Khi Eziev và Ilin bị thương, lính Hồng quân Minokhodov đã kéo cả 2 ra khỏi sà lan và băng bó cho 2 người. Bản thân Minokhodov cũng bị thương vào lưng. Sau đó Minokhodov chạy trở lại 1km, tới thê đội 2 để báo cho họ biết tiểu đoàn trưởng đã bị thương rồi ngất đi luôn. Giờ tất cả đang ở quân y viện cùng nhau.
Trung sĩ Vlasov 48 tuổi, trông già xọm, đến từ Yaroslavl. Khi sà lan bị thủng vì 1 phát đại bác, ông nhờ 1 người giữ chặt 2 chân còn mình bịt lỗ thủng bằng áo mưa rồi đóng đinh xung quanh. Có 400 tấn đạn đang chở trên sà lan. Vlasov vốn là giám đốc 1 nông trang tập thể, ông có 2 con trai cũng đang ở mặt trận, vợ ông ở nhà chăm sóc 3 đứa con còn lại.
Sau khi được Ctrị viên huấn thị, Vlasov đã bắn 1 tên hèn: người lái xuồng máy Kovalchuk. Kovalchuk đã được lệnh chở các binh sĩ tới Nhà máy Tháng 10 Đỏ. Bị pháo kích dữ dội, hắn đã hoảng sợ và chở họ lên 1 hòn đảo rồi nói: “Mạng sống với tôi quan trọng hơn ... Các anh có thể tống tôi đi hoặc bắn tôi, nhưng tôi vẫn sẽ ko làm việc này nữa. Tôi già rồi.” Hắn đã dễ dàng hoảng sợ, và hắn chửi, hắn chửi ko từ 1 ai, và hắn nói về tướng lệnh như thế này: “Bọn tướng tá xuống địa ngục hết đi!”
Tiểu đoàn tuyên án tử hình Kovalchuk trước hàng quân. “Trong khi hàng trăm hàng nghìn chiến sĩ đang chiến đấu vì Stalingrad, hắn đã phản bội Tổ quốc,” Ctrị viên tuyên bố. “Ai sẽ bắn hắn?” Vlasov bước lên phía trước. “Để tôi, thưa đồng chí Ctrị viên.”
Kovalchuk khuỵu xuống, hắn kêu: “Tha cho tôi, đồng chí Ctrị viên, tôi sẽ sửa chữa.” Ctrị viên ôm chặt Vlasov trước toàn thể đại đội.
Ctrị viên tiểu đoàn rõ ràng rất kính trọng Vlasov.
“Điều khủng khiếp nhất mà tôi từng trải qua là khi 1 chiếc sà lan trúng đạn, trên đó đang có khoảng 400 người. Thật đáng sợ, tiếng kêu khóc vang lên: “Chúng ta đang chìm, chúng ta sẽ chết hết!” Rồi Vlasov đến bên tôi nói: “Nó đã sẵn sàng, đồng chí Ctrị viên.” (Có nghĩa là chiếc sà lan đã được dặm vá xong.) Ngay sau đó 1 ngọn lửa bùng lên. 1 thằng lính, quân chó đẻ ấy chứ, lấy 1 chai KS (*) ra uống và làm nó bốc cháy. Chúng tôi dập đám cháy bằng cách trùm 1 tấm bạt lên. Bất cứ lúc nào đám lính tráng cũng có thể bắt đầu nhảy nhót trên mặt nước được! Ông lão Muromtsev kia cũng khá. Ông ấy đã phát hiện ra 2 lỗ thủng và bịt chúng lại. Ai cũng có lúc sợ, đúng ko? Tôi cũng thế, mọi người đều có thể bị nỗi sợ cuốn đi, nhưng 1 số người giữ được sự sợ hãi trong tầm kiểm soát. Giờ chúng tôi đều có khả năng đó, khi đó người ta trở nên lặng lẽ và nói: “Chỉ hơi buồn tí thôi!””
Grossman đã có 1 cuộc phỏng vấn Vlasov.
Pavel Ivanovich Vlasov, 48 tuổi, đến từ Yaroslavl, gia đình có 5 người con. 1 trong các con trai ông là 1 pháo thủ súng cối cận vệ. Vlasov tham gia lực lượng dự bị động viên từ tháng 8/1941, bắt đầu với công việc gác kho.
“Chúng tôi đã ở đây, trên dòng sông Volga này từ hôm 25/8. Sà làn thì lớn, chở khoảng 400 tấn đạn. Trận pháo kích bắt đầu khi chúng tôi đang xếp hàng lên sà lan nhưng chúng tôi ko quan tâm đến nó. Lúc đó tôi đang ở mũi tàu, đó là vị trí của tôi. Quân địch nổ súng, tôi thò đầu ra quan sát. Có 1 lỗ thủng trên boong và 1 lỗ nữa bên sườn tàu dưới mớn nước 1m, những tấm gỗ vỡ vụn ra. Chúng tôi nghe thấy tiếng nước tràn vào, mọi người bắt đầu kêu khóc.
Tôi vồ lấy 1 tấm bạt và lao vào trong khoang. Có ánh sáng rọi vào đủ để nhìn vì boong tàu đã vỡ. Tôi nhồi tấm bạt vào cái lỗ to rồi cởi áo mưa nhồi tiếp vào. Với những lỗ nhỏ chúng tôi bịt lại từ bên ngoài. Họ nắm chân tôi thả xuống để tôi mò tìm lỗ thủng.
Về tay lái xuồng máy hèn nhát. “Đó là dạo đầu tháng 10, chúng tôi nhận lệnh vượt sông qua bờ bên kia (bờ tây) và sửa chữa 1 bến đỗ. Anh ta đưa chúng tôi lên 1 hòn đảo và bảo: “Với tôi, mạng sống quan trọng hơn.” Chúng tôi bắt đầu chửi anh ta bằng những lời tục tĩu nhất.
“Ctrị viên nhận được 1 bản báo cáo về chuyện này và chúng tôi được lệnh tập hợp toàn tiểu đoàn. Ctrị viên đọc lệnh và Kovalchuk đã ko xử sự đúng mực. Anh ta kêu xin cho anh ta về đơn vị cũ, nhưng tại đó anh ta vốn đã bị xử tội nặng rồi: anh ta kể anh ta đã bị bỏ rơi. Tôi có cảm giác nếu có thể tôi sẽ xé xác anh ta thành từng mảnh mà chẳng cần xét xử gì hết. Sau đó Ctrị viên nói: “Ai sẽ bắn anh ta?” Tôi bước lên khỏi hàng và Kovalchuk sụm xuống. Tôi lấy khẩu súng trường của 1 đồng đội và bắn.”
“Ông có cảm thấy tiếc cho anh ta ko?”
“Tiếc là tiếc thế nào?”
“Tôi nhận được giấy gọi nhập ngũ vào đêm 28/8/1941. Tôi ko uống nhiều như mọi người thường làm, tôi ko có thói quen đó. Tôi cũng ko viết nhiều trong thư gửi về nhà: “Tôi vẫn còn sống,” và tôi hỏi han về việc nhà thôi. Bọn trẻ ko phải đứa hư, tôi ko hiểu chúng đối mặt với việc vắng tôi như thế nào, nhưng chúng đã giúp tôi vững lòng khi ở đây. Có rất nhiều việc phải làm, ai cũng phải làm việc cả ngày lẫn đêm. Mùa vụ trồng lanh là thứ cần tập trung cao độ. Bạn cần phải rẫy cỏ dại, rồi lại rẫy cỏ dại, rồi nhổ lanh bằng tay, phơi khô, đánh đống, sau đó trải ra đập rồi chở đi ... Nhìn chung công việc ở đây ko nặng nhọc bằng ở nhà, mặc dù tôi đã từng phải đi 3 ngày liền ko ngủ khi làm 1 cây cầu. Nếu bạn thực sự mệt mỏi bạn cứ ngủ, nếu đã ko ngủ 1 đêm bạn sẽ được ngủ đêm tiếp theo.
"Súng phòng ko quân ta ko hoạt động tốt, cho tới giờ tôi mới chỉ thấy họ hạ được 3 máy bay địch. Họ ko đáng được ca ngợi.
"Đám thanh niên tuân lệnh tôi. Đôi khi tôi hơi nghiêm khắc với chúng nhưng điều đó là cần thiết. Nếu ai đó trở thành khâu yếu thì ko tốt chút nào, dù đó là ở nhà hay trong chiến tranh. Tôi ko có nợ nần gì, nếu tôi bị giết, sẽ ko có khoản nợ nào chưa được trả đủ ... Ai nấy đều tự mang theo toàn bộ tư trang của mình: 1 cái ca, 1 cái nồi, 1 cái thìa. Tiền được gửi về cho gia đình, chẳng có gì để mua ở đây cả.
"Ở vị trí của tôi giờ chỉ còn Moshchav và Malkov, chẳng còn ai khác. Những người khác đều đã chết hoặc bị thương ...
"Chúng tôi bắt cá để ăn, bọn Đức đã đánh thuốc nổ chúng giúp chúng tôi. Tôi vừa bắt được 1 con cá tầm và sau đó là 1 con cá chép đỏ. Giờ chúng tôi nấu súp." (**)
"Đám chó hoang hiểu biết về máy bay rất rõ. Lũ chó hoàn toàn ko tỏ dấu hiệu gì khi những chiếc máy bay bay qua, thậm chí dù chúng gầm rú ngay trên đầu. Nhưng lũ chó sẽ sủa ngay lập tức nếu máy bay Đức lượn xuống, chúng tru lên và chạy tìm chỗ núp, thậm chí khi chiếc máy bay còn đang bay rất cao."
"Bom và đạn pháo ko làm văng miểng khi nổ dưới nước. Chỉ khi nào trúng đạn trực tiếp mới đáng sợ. Hôm qua 1 tàu cá đã trúng đạn, viên đạn xuyên tới tận đáy và làm 75 người bị thương."
Trong bài viết "Bến phà Stalingrad", Grossman viết:
Mặt đất quanh bến phà bị cày sới bằng thứ sắt thép của bọn quỷ dữ ... Súng của bọn Đức nổ ko ngừng dù chỉ 1 phút ... Giữa 2 bến phà, giữa Stalingrad và bờ bên kia sông là 1.300m nước Volga. Những chiến sĩ tiểu đoàn phà nhiều lần nghe thấy trong những khoảnh khắc yên tĩnh ngắn ngủi những tiếng hô kéo dài. Tiếng hô vọng lại từ phía xa: "A-a-a ... ", đó là tiếng hô bùng lên quân ta đang phản công.
Lịch làm việc của bọn Đức: Pháo bắn đến nửa đêm. Từ nửa đêm đến 2h sáng - yên lặng. Từ 2h đến 5h sáng - chúng lại bắn tiếp. Từ 5h sáng đến giữa trưa - yên lặng. Luftwaffe (Ko quân Đức) hoạt động từ 9h sáng đến 5h chiều đều đặn như 1 công việc thường ngày. Chúng nhắm vào bờ sông, ko phí bom để ném xuống nước.
"Việc vượt sông tiến hành từ 6h tối đến 4h30 sáng ... (1 người kể) Chúng tôi nguỵ trang thuyền bè, giấu chúng dưới những tán cây bên bờ sông. Chiếc tàu hơi nước "Donbass" thì giấu trong 1 chiếc sà lan đã bị phá huỷ ... Sẽ rất khó khăn nếu có trăng, trời lúc đó thì đẹp đấy, nhưng tiên sư cái trời đẹp ấy chứ." (Nguyên văn: Damn the beauty - Maseo).
1 thợ hàn ở bến phà bờ tây đã nhận thấy anh ta phải vá víu những vết thương trên chính thân thể mình còn nhiều hơn cả vá những chiếc tàu đang tham chiến kia.
Thợ hàn Kosenko là người rất tốt, các lính tiền tuyến hay đến gặp anh ta để nhờ vả, có khi là vá víu 1 khẩu Katyusha. "Anh làm tốt hơn ở ngoài mặt trận." 2 cỗ xe tăng lao về chỗ anh từ mặt trận. "Nhanh lên, chúng tôi phải trở lại đánh tiếp." Anh sửa lại và 2 cỗ xe quay lại chiến đấu.
Cuộc sống thường ngày. Lính vận tải tự làm bánh, banya (nhà tắm hơi) và đồ để bắt rận. Banya được đào sâu xuống đất, lính tráng khoái tới đó cầm theo mấy cành bulô nhỏ. Họ có thể ở đấy suốt nếu được. Ống khói banya đã bị nổ toác. Bánh được làm trong 1 bếp lò kiểu Nga, cũng đào xuống đất. Thứ bánh mì làm từ đây thật tuyệt vời, vẫn còn hơi ấm. Nhưng cuối cùng lò bánh cũng bị 1 quả bom đập vụn! Bếp ăn của Đại đội 2 cũng xơi 1 phát đạn ngay chóc. "Tôi có thể báo cáo điều gì đây? Bếp dã chiến đã nổ tung cùng với shchi (súp củ cải) bay tung toé àh?"
"Cứ thế đi, rồi đi nấu bữa tối khác."
Mặc dù Grossman chỉ là 1 phóng viên nhưng rõ ràng trong trường hợp cần thiết ông cũng hăng hái tham gia vào công việc của những người lính.
1 xe chở đạn Katyusha phát hoả, có cả tá xe cộ xung quanh nó. Chúng tôi phải kéo nó ra xa.
Nhưng trên hết, ông rất vui mừng khi biết các bài viết của mình có ý nghĩa rất lớn với những người lính.
Tất cả họ đều rất thích bài viết nhỏ của tôi về những người lính đến từ Yaroslavl. Họ đi vênh vang như những con công: "Đó là bài viết về chúng ta!"
(*) KS là 1 hỗn hợp công nghiệp có chứa cồn chưa tinh lọc.
(**) Acipenser ruthenus, tên khoa học của cá tầm nước ngọt, và Leuciscus idus, tên khoa học của cá chép đỏ hay còn gọi là cá orfe.
MƯỜI SÁU
NHỮNG TRẬN ĐÁNH TRONG THÁNG 10
Sở chỉ huy của tướng Chuikov chỉ đóng trong đường hầm Tsaritsa chưa tới 1 tuần cho tới khi quân Đức mở 1 cuộc tấn công nữa đánh thẳng vào trung tâm Stalingrad. Chuikov và ban tham mưu phải chuyển đi khoảng 4km về phía bắc tới Nhà máy Tháng 10 Đỏ. Khu vực nhà máy ở phía bắc Stalingrad này nhanh chóng bị người Đức xem là mục tiêu của các cuộc tấn công. Cuộc tấn công lớn đầu tiên diễn ra vào ngày 27/9. Các cuộc tấn công đều được bắt đầu bằng màn oanh tạc của hàng đàn Stuka, loại máy bay được lính Hồng quân đặt tên là "máy rít" hay "nhạc công" vì tiếng rít mà chúng tạo ra khi bổ nhào xuống mục tiêu.
Chiến sự ở cánh bắc này cũng tuyệt vọng như các nơi khác vì tại đây Sư 16 Thiết giáp Đức đã chiếm Rynok, Spartakovka và đang tiến thẳng tới nhà máy sản xuất máy kéo này từ phía bắc.
Lữ đoàn 149 của Bolvinov - có lẽ là đơn vị tốt nhất - được đặt dưới quyền chỉ huy của Gorokhov (chỉ huy lữ đoàn 124), vai trò của Bolvinov bị đẩy xuống hàng thứ yếu. Nhưng Bolvinov vẫn tiếp tục làm những gì cần thiết. Ông cũng trườn bò, miệng ngậm lựu đạn, từ hoả điểm này đến hoả điểm khác, và mọi lính Hồng quân đều yêu mến ông.
Đối với tất cả các sở chỉ huy các cấp trên bờ tây, vấn đề rắc rối chính là thông tin liên lạc. Dây thông tin đứt suốt vì mảnh đạn và cả vì bị vướng vào những người chạy qua lại. Chuikov kể lại cho Grossman cảm giác về sự bất lực và lo lắng.
"Đó là thứ cảm giác ngột ngạt nhất trên đời. Súng nổ khắp xung quanh, bạn lệnh cho những giao liên đi ra xem cái gì đang xảy ra, và họ bị giết sạch. Khi đó sự căng thẳng làm bạn run rẩy khắp người ... Những lúc đáng sợ nhất là khi bạn ngồi đây như 1 thằng ngốc trong khi trận đánh diễn ra sục sôi xung quanh, vậy mà bạn chẳng thể làm được gì."
Sự đe doạ trực tiếp nhất đến với sở chỉ huy của Chuikov vào ngày 2/10. Sở chỉ huy Tập đoàn quân 62 đặt trên triền sông Volga ngay sau những bồn chứa của 1 kho nhiên liệu mà ai nấy đều cho rằng đã rỗng. Thật là 1 nhầm lẫn tai hại. Bọn Đức đã nhắm chính xác vào những bồn chứa này và đột nhiên cả sở chỉ huy chìm trong lửa, như Chuikov sau này để lại cho Grossman.
"Dầu chảy xuống sông Volga xuyên qua sở chỉ huy. Mặt sông bốc cháy. Chúng tôi chỉ cách mép nước độ 15m. Con đường thoát duy nhất là lao thẳng về phía quân địch ... Những bồn nhiên liệu đang cháy, bốc thành những cột khói cao tới 800m. Và trên sông Volga mọi thứ đang nổi trên mặt nước đều bốc cháy rồi chìm xuống sông. Mọi người lôi tôi lên khỏi con sông đang bốc lửa và chúng tôi đứng trên mép nước cho tới sáng. 1 số người đang ngủ đã chết cháy ... có tới 40 người chết chỉ riêng tại sở chỉ huy."
Tham mưu trưởng của Chuikov kể lại câu chuyện của riêng ông.
Sau đó sở chỉ huy chuyển tới 1 đường hầm nằm cạnh nhà máy Chiến luỹ (Barrikaky) và ở đó từ ngày 7 đến ngày 15/10. Tại đó chúng tôi lại phải chịu áp lực từ hướng tấn công chính của địch và buộc phải chuyển đi tiếp, tới đường hào lớn Banny. Sở chỉ huy Sư 284 Bộ binh đóng trong đường hầm sau khi chúng tôi rời đi rồi cũng phải chuyển đi nốt, ra bờ sông. Ở đây người ta thường nghe nói về đường hào lớn Banny như thế này:
"Sở chỉ huy Tập đoàn quân biến mất rồi!"
"Biến đi đâu?"
"Ko thấy chuyển ra bờ sông, nó chuyển ra gần chiến tuyến hơn rồi."
Ngày 6/10, tướng Đức Paulus tung 2 sư đoàn đánh vào Nhà máy Máy kéo khổng lồ nằm ở phía bắc Stalingrad. Paulus chịu áp lực nặng nề của Hitler yêu cầu phải kết liễu ngay cái túi phòng ngự của quân Soviet trên bờ tây. Cùng lúc đó, Yeremenko cũng bị Stalin giục phải mở cuộc phản công để đẩy lùi quân Đức. Chuikov từ chối thực hiện mệnh lệnh phi thực tế này. Ông chỉ vừa đủ sức giữ được những gì đang có, và đó hoàn toàn là nhờ pháo hạng nặng đặt trên bờ đông đã liên tục nã đạn câu qua đầu quân của ông vào các vị trí có thể tập trung xuất phát xung phong của quân Đức, phá huỷ mọi ý định chuẩn bị tấn công của chúng.
Trận tấn công vào Nhà máy Máy kéo Stalingrad là 1 chương kịch tính của Trận Stalingrad. Những chiếc xe tăng của Sư 14 Thiết giáp Đức đã lao thẳng vào các phân xưởng như những con ác quỷ thời tiền sử, xích của chúng nghiền nát những mảnh kính vỡ rơi từ các cửa sổ trên cao xuống. Phần còn lại của Sư 112 Bộ binh Soviet và Sư 37 Bộ binh Cận vệ của Đại tá Zholudev đã ko thể chặn được cuộc tấn công, thế nhưng mặc dù tuyến phòng ngự đã bị phá vỡ, họ vẫn tiếp tục chiến đấu trong những vị trí đơn lẻ. (*)
Sư đoàn của Zholudev, chính ủy là Shcherbina. Địa điểm: Nhà máy Máy kéo. Chỉ huy sở bị chôn vùi sau 1 tiếng nổ. Mọi thứ bỗng trở nên lặng ngắt, mọi người đều ngồi đờ ra đó 1 lúc lâu, rồi họ bắt đầu hát: "Lyubo, bratsy, lyubo." (Sự sống là điều tuyệt vời nhất.) 1 trung sĩ đào bới xác những người bị vùi lấp ngay dưới lửa đạn. Anh ta đào như 1 người điên, đào cuống đào cuồng, miệng sùi cả bọt mép. 1 giờ sau anh ta cũng chết vì trúng đạn pháo. 1 tên Đức đã để cướp cò khẩu tiểu liên của hắn. Hắn chui vào 1 đường ống và để súng nổ khi nghe thấy tiếng pháo và cối bắn, thế là người ta phát hiện và lôi hắn ra. Cả người hắn đen kịt, lính tráng xé xác hắn ra thành từng mảnh.
Khi bọn Đức chiếm được 1 phân xưởng, bọn chúng còn kích cả 1 chiếc tăng hỏng lên cao để bắn qua cửa sổ.
(*) Sư 37 Bộ binh Cận vệ được thành lập từ Quân đoàn 1 Đổ bộ đường ko vào tháng 8/1942, sau những thiệt hại nặng nề tại Stalingrad, sư đoàn được tái tổ chức và trở thành 1 phần của Tập đoàn quân 65.
Grossman 1 lần nữa lại vượt sông sang bờ tây ngay khi chiến sự bùng nổ trở lại với 1 cuộc tấn công nữa quân Đức. Ông viết cho Tổng biên tập tờ Krasnaya Zvezda để báo cáo về sự di chuyển của mình.
Thưa đồng chí Ortenberg, tôi khởi hành ngày 11 với Vysokoostrovsky (1 phóng viên khác của tờ Krasnaya Zvezda) và vượt sông sang Stalingrad ngay trong đêm đó. Tôi đã có các cuộc phỏng vấn chi tiết với các binh lính, sĩ quan và với tướng Rodimtsev.
Grossman tình cờ nghe được 2 người lính nói chuyện trên đường tới bến phà qua sông Volga:
"Đã lâu tôi chưa được ăn 1 bữa ăn nóng."
"Ừ, chúng ta sẽ sớm được uống máu nóng của chính mình ngoài kia," người kia trả lời.
Sư 13 Bộ binh Cận vệ của Rodimtsev cũng hầu như tan nát vì cuộc tấn công bất thình lình. Ngày 1/10, 1 bộ phận Sư 295 Bộ binh Đức đã lẻn qua các đường cống thoát nước đánh vào cánh phải của Rodimtsev và gần như đã cắt đứt được sư đoàn của ông khỏi phần còn lại của Tập đoàn quân 62. Những chiến binh cận vệ của Rodimtsev đã phản ứng lại bằng những cuộc phản công ác liệt nhưng cũng chỉ vừa đủ để đẩy bọn Đức lui lại. Grossman đã ở cùng sư đoàn trong 2 ngày 12 và 13/10.
1 cuộc chôn cất diễn ra bên sông, điếu văn, chào. Bài điếu văn đọc bên mộ bắt đầu bằng việc nói rằng họ đã hy sinh và trong trường hợp nào. Việc chôn cất hoàn thành ngay trong đêm, bao giờ cũng kết thúc bằng việc bồng súng chào.
Việc bồng súng chào vĩnh biệt ở Stalingrad ko có màn bắn lên trời, thay vào đó là bắn về phía bọn Đức.
Đồi Mamaev Kurgan thật đẹp và buồn - nơi đây giờ là sở chỉ huy tiểu đoàn. Lính đại đội cối bật 1 đĩa hát suốt, bài hát tên là: "Đừng, các bạn, ko phải bây giờ, đừng để tôi trên chiếc giường băng giá này."
Ko đâu có nhiều âm nhạc như ở đây. Nơi đất đai bị cày xới, biến màu vì phân và máu này vẫn vang lên tiếng nhạc từ radio, máy hát và cả các "giọng ca vàng" cấp trung và đại đội.
"Chúng tôi đã tiến hành 2 buổi hoà nhạc ở đây," Rodimtsev nói. Thợ cắt tóc Rubinchik chơi violông dưới đường cống ngầm và ai nấy đều mỉm cười khi nhớ lại những buổi hoà nhạc thật sự.
Rodimtsev cũng kể 1 chuyện gần như giai thoại phần nào đại diện cho những mối quan tâm của lính tráng.
"Ví dụ hôm nay 2 người lính tới chỗ tôi. Hoá ra họ đã chiến đấu suốt 14 ngày trong 1 ngôi nhà bị vây giữa những ngôi nhà do bọn Đức chiếm giữ. Anh biết ko, 2 người này rất nhẹ nhàng yêu cầu cung cấp bánh bít cốt, đạn dược, đường, thuốc lá, nhét tất cả vào balô rồi lại đi. Họ bảo: "Còn 2 người nữa ở đó canh nhà, và họ cần vài hơi thuốc." Trên thực tế, chiến đấu giữa các ngôi nhà quả là 1 công việc kỳ lạ," ông cười. "Tôi ko biết có nên nói ra với anh hay ko, nhưng 1 vụ việc hài hước đã xảy ra hôm qua. Bọn Đức chiếm được 1 căn nhà, dưới hầm nhà có 1 thùng rượu mạnh. Các chiến sĩ cận vệ của tôi cay cú vì tưởng tượng bọn Đức đang uống thùng rượu đó, 20 người đã tấn công ngôi nhà, chiếm lại nó và lăn thùng rượu đi dù phần lớn con phố đã do bọn Đức chiếm giữ. Tất cả các hành động dũng cảm đó đều xuất phát từ những nguyên nhân rất thực tế ...
"Tôi ko sợ gì hết," Rodimtsev nói. "Đó là cách duy nhất. Tôi nghĩ mình đã trải qua mọi thứ. 1 lần xe tăng Đức đã là phẳng sở chỉ huy của tôi và sau đó bọn lính tiểu liên quẳng lựu đạn vào, ngay lập tức tôi nhặt lựu đạn ném trả ... "
1 lần khác, Grossman cùng với Efim Gekhman cũng đã tới gặp Rodimtsev trên bờ tây. Viên tướng cận vệ nói ông hơi lo lắng với các cuộc phỏng vấn. "Các anh biết ko, tôi là người mê tín. Tôi có nhớ bài viết đăng trên tờ Krasnaya Zvezda về lá cờ đầu Dovator như thế nào. Anh ta đã bị giết ngay hôm báo ra." (*)
Grossman với bản chất tốt đẹp của mình bao giờ cũng ca ngợi lòng dũng cảm của người khác. "Gekhman là người cực kỳ dũng cảm," Ortenberg nhớ có lần Grossman nói. "1 lần, trong 1 đêm tháng 10 tối đen như mực, chúng tôi phải rời đường hầm nơi Rodimtsev đóng sở chỉ huy tại Stalingrad để vượt sông Volga sang bờ bên kia bằng thuyền. Rodimtsev lắng nghe 1 cách lo lắng tiếng gầm của đạn pháo bên ngoài, lắc lắc đầu và bảo chúng tôi: "Các đồng chí, làm 1 ly trước khi đi nào, tình hình ngoài đó đang rất nóng bỏng, nhất là tại bến sông." Gekhman nhún vai trả lời: "Ko, cám ơn. Tôi thích làm 1 miếng xúc xích nữa hơn." Anh ta nói 1 cách rất bình thản và xơi miếng xúc xích 1 cách thật là ngon lành khiến ko ai nhịn được cười."
Chiều tối ngày thứ 2, 14/10, Tập đoàn quân 6 Đức mở cuộc tấn công mà tướng Paulus hy vọng là cuộc tấn công cuối cùng nhằm đẩy Tập đoàn quân 62 khỏi bờ tây. Toàn bộ số máy bay Stuka có thể hoạt động của Tập đoàn quân Ko quân 4 Đức do tướng Wolfram von Richthofen chỉ huy đều được sử dụng nhằm làm mềm các vị trí quân Soviet. Đó là 1 cuộc oanh tạc dữ dội chưa từng có. Chuikov có cảm giác thời điểm quyết định của trận đánh đang tới.
"Giới truyền thông (**) đã trêu tức Hitler vì sự thất bại của hắn trong việc chiếm Stalingrad, và chúng tôi lãnh đủ. Chúng tôi đang ngồi đây, đang hiểu, đang cảm thấy, đang tin chắc rằng Hitler đã tung các lực lượng quan trọng nhất của hắn vào đây.
"Sau ngày 14, tôi quyết định đưa toàn bộ phụ nữ sơ tán sang bờ bên kia. Cuộc chia tay có rất nhiều nước mắt. Nhưng lòng can đảm đã lây lan ở đây, giống như sự hèn nhát đã từng lây lan ở những nơi khác. Nói cho ngay, chúng tôi chỉ sống được từng giờ, từng phút, ai cũng đợi tới lúc mình ngã xuống. Thế rồi cảm giác này lại quay lại với tất cả mỗi ngày, đến tối ai cũng nghĩ: "Ơn Chúa, 1 ngày nữa đã trôi qua, thật ngạc nhiên." Vâng, lúc đó nếu ai bảo tôi sẽ sống tới ngày bắt đầu năm mới tôi sẽ cười vào mũi họ."
Trong đêm 15/10, 3.500 người bị thương đã được sơ tán qua sông. Nhiều người đã phải tự bò đến bờ sông vì ko đủ nhân viên y tế. Sáng sớm 16/10, đích thân tướng Yeremenko vượt sông sang bờ tây thăm Chuikov. Ông cần biết chính xác quân ta còn có thể giữ vững được ko. "Yeremenko đến trong đêm (***) ... Gurov và tôi ra gặp ông.
"Lửa cháy như hoả ngục, đang có 1 cuộc ko kích." Chuikov ko nói ra ông và Gurov đã ko tìm thấy Yeremenko trên bờ sông, tự Yeremenko đã lẻn vào sở chỉ huy Tập đoàn quân 62 và đợi 2 ông ở đó. Yeremenko kể cho Grossman việc ông đã chạm trán với 1 người lính bên bờ sông như thế nào: "Tôi nhận ra ông, thưa đồng chí Tổng Tư lệnh." Anh ta kể tôi nghe anh ta đã ở đâu, chiến đấu ra sao, giết được bao nhiêu tên Đức."
Sau khi trận Stalingrad kết thúc, Chuikov đã cố kể lại tình hình lúc đó 1 cách sáng sủa hơn là thực tế nhưng cũng ko lấp liếm sự thật là trong cuộc khủng hoảng vào trung tuần tháng 10 đó, đầu cầu của Tập đoàn quân 62 đã thu hẹp lại chỉ còn chưa tới 1.000m chiều sâu và chỉ chút xíu nữa là bị bóp nghẹt.
"Các cuộc tấn công của bọn Đức: chúng nghiền nát mọi thứ trên mặt đất dưới xích xe tăng. Sau cơn hỗn loạn các chiến sĩ ta xông ra khỏi các chiến hào và cắt rời bộ binh Đức khỏi những chiếc xe tăng của chúng ... Có tiếng thét: "Xe tăng địch đã vào đến sở chỉ huy!"
"Còn bộ binh?"
"Quân ta đã tách rời được chúng ra."
"Thế thì mọi thứ vẫn ổn."
Grossman hỏi Chuikov xem ông nghĩ thế nào về sự chấp hành mệnh lệnh của quân Đức. "Chúng ko phải đội quân đặc biệt xuất sắc, nhưng công bằng mà nói chúng ta phải học tập tính kỷ luật của chúng. Mỗi mệnh lệnh đều là pháp luật đối với chúng."
Tham mưu trưởng của Chuikov, Krylov, người đã trải qua trận phòng thủ Sebastopol ác liệt, đã so sánh trận đánh đó với trận Stalingrad này. "Tại đó quân ta cứ rút dần ra, trong khi ở đây lại được bổ sung thêm liên tục. Tuy nhiên giữa 2 trận đánh có rất nhiều điểm chung. Đôi khi chúng tôi có cảm giác như mình vẫn đang tiếp tục trận đánh cũ. Nhưng chúng tôi ko hề cảm thấy mất tinh thần như hồi ở Sebastopol."
(*) Thiếu tướng L. M. Dovator, chỉ huy Quân đoàn Kỵ binh Cận vệ 2 trong trận Moscow, hy sinh ngày 20/12/1941.
(**) Giới truyền thông quốc tế có lẽ gây hiệu quả (với Hitler) cao hơn là truyền thông Soviet.
(***) Grossman ghi rằng cuộc gặp gỡ này xảy ra đêm 13/10 nhưng hầu hết các ghi chép khác đều cho biết cuộc viếng thăm trận địa trên bờ tây của Yeremenko diễn ra vào sáng sớm ngày 16/10.
Mất Nhà máy sản xuất máy kéo có nghĩa là Lữ đoàn 124 của Gorokhov ở Spartakovka bị cắt rời khỏi đội hình.
Trong cái ngày bi hùng đó, tôi nhớ đến tiểu đoàn đã vượt sông tiến về hướng khu vực quân của Gorokhov đang phòng thủ nhằm mục đích thu hút đòn đánh chính của địch chuyển hướng nhằm vào chính họ. (*) Tất cả đã hy sinh, ko 1 ai sống sót. Nhưng có ai còn nhớ đến tiểu đoàn này ko? Ko ai còn nghĩ tới những người đã vượt sông trong đêm mưa cuối tháng 10 đó. (2 ngày sau tôi đã gặp 1 tù binh người Gruzia của tiểu đoàn này. Hắn đã đào ngũ và đầu hàng địch. Hắn nói có nhiều người khác cũng đầu hàng.)
1 người Ossetia tên là Alborov đã hy sinh tại vị trí phòng ngự vì 1 trái bom. Tay anh vẫn còn nắm chặt báng súng, nòng đã bị thổi bay vì vụ nổ, mạch của anh vẫn chưa ngừng đập. Bạn anh đang thổn thức, rồi khóc: "Người đồng chí của tôi hy sinh rồi."
Grossman bỏ nhiều thời gian ở cùng với Sư 308 Bộ binh của Đại tá Gurtiev gồm toàn dân Siberi đang bảo vệ khu vực các xưởng sản xuất silicat nằm ở phía bắc tổ hợp Nhà máy Chiến luỹ. (**) Họ đã vượt sông Volga ngày 30/9 và lập tức xung trận. Đây là những tài liệu mà Grossman sưu tập được cho thấy những gì đã xảy ra với sư đoàn kể từ ngày cuối cùng của tháng 9, ngày họ đã vượt sông sang bờ tây.
Tuyến đầu đã bị vượt qua, rồi tuyến 2, sau đó là tuyến 3. 13 đợt tấn công đã được tung ra trong ngày hôm đó. Bọn Đức tìm mọi cách tiến tới bến phà. Pháo binh ta đóng vai trò quyết định.
Ngày 1/10, 4 trung đoàn pháo và các pháo đội Katyusha bắn trong nửa giờ. Khi đó mọi hoạt động đều tê liệt. Bọn Đức rúc xuống chỗ trú ẩn. Lính ta cũng chỉ quan sát và nghe ngóng.
Bọn Đức ở ngay hàng rào nhà máy. Đó là buổi chiều ngày 2/10. 1 số tên ẩn núp, số khác bỏ chạy. 1 chiến sĩ người Kazakh đã tóm được 3 tù binh, anh ta cũng đã bị thương, vì vậy anh rút dao ra đâm chết cả 3 tù binh. 1 lính tăng thân hình to lớn, tóc đỏ, nhảy khỏi chiếc xe tăng đã trúng đạn, nhặt gạch ném bọn Đức 1 cách tuyệt vọng và mù quáng. Cuối cùng bọn Đức đã quay gót bỏ chạy.
Tinh thần binh sĩ vẫn cao, họ đã có 1 số kinh nghiệm chiến đấu, tuổi đời của họ là từ 23 đến 46, phần lớn là dân Siberi đến từ Omsk, Novosibirsk và Krasnoyarsk. Dân Siberi thấp đậm, kín đáo và cứng rắn hơn các sắc dân khác. Họ vốn là dân săn bắn, có kỷ luật cao và chịu lạnh hay gian khổ với họ là chuyện thường. Ko hề có 1 trường hợp đào ngũ nào trên đường tới Stalingrad. 1 người đã đánh rơi súng, anh ta nhảy xuống nhặt rồi chạy bộ đuổi theo đoàn tàu suốt 3km thì bắt kịp nó. Họ ko lắm lời nhưng dí dỏm và miệng lưỡi sắc nhọn.
"Chúng tôi thường xuyên phải chịu đựng bọn "máy rít" (Stuka), thậm chí còn thấy buồn nếu ko nghe tiếng rít đó của bọn Đức. Khi chúng rít lên có nghĩa là chúng sẽ ko ném cái gì vào đầu chúng tôi. Chúng bắt đầu đánh vào khu nhà máy sản xuất silicat đêm hôm 2/10. Toàn bộ trung đoàn của Markelov chết hoặc bị thương hết, chỉ có 11 người thoát được. Bọn Đức chiếm được toàn bộ khu nhà máy vào tối 3/10. Mệnh lệnh dành cho chúng tôi là: ko lùi 1 bước. Trung đoàn trưởng bị thương nặng, chính uỷ hy sinh.
“Quân ta bắt đầu phòng thủ 1 con phố đã cháy trụi phía trước công viên điêu khắc. Ko ai trở về sau trận đánh, tất cả đều hy sinh tại vị trí. Thời điểm quyết định đến vào ngày 17/10. Địch ném bom chúng tôi suốt 3 ngày đêm 17, 18 và 19/10. 2 trung đoàn Đức bắt đầu tấn công.
“Cuộc tấn công bắt đầu vào 5h sáng và chiến sự diễn ra suốt cả ngày. Chúng tấn công thọc sườn quân ta và cắt rời sở chỉ huy khỏi phần còn lại của trung đoàn. Trung đoàn chiến đấu từ nhà ngày sang nhà khác suốt 2 đến 3 ngày, cả các sĩ quan thuộc ban chỉ huy cũng thế. Đại đội trưởng đại đội 7 cùng 12 người nữa đã đánh bật 1 đại đội Đức khỏi chiến hào của chúng. Họ rời con hào đó trong đêm, sau đó đánh chiếm 1 ngôi nhà. Trong nhà có 20 tên Đức, 2 bên đánh nhau bằng lựu đạn giành giật từng tầng nhà, từng cầu thang, từng ban công, từng phòng.
“Phó tham mưu trưởng Kalinin đã hạ 27 tên địch và 4 xe tăng bằng súng trường chống tăng. Có 80 công nhân và 1 đại đội tự vệ bảo vệ nhà máy, chỉ còn 3 hay 4 người sống sót. Họ chưa trải qua 1 khóa huấn luyện quân sự nào. Chỉ huy của họ là 1 công nhân trẻ, 1 Đảng viên, và họ đã bị cả 1 trung đoàn Đức tấn công.
(*) Grossman có lẽ đang tả lại chiến sự ngày 17/10, khi toàn bộ các đầu cầu trên bờ tây đối mặt với cuộc tổng tấn công của quân Đức. Tiểu đoàn này thuộc Sư 138 của Lyudnikov, lực lượng tăng cường vừa mới tới và được Chuikov tung qua sông Volga trong thời điểm quyết định của trận đánh.
(**) Sư 308 Bộ binh sau chuyển thành Sư 120 Bộ binh Cận vệ trực thuộc Tập đoàn quân 3. Giống như hầu hết các sư đoàn đã tham chiến tại Stalingrad, sư đoàn này cũng tiếp tục chiến đấu trên mọi nẻo đường cho tới tận Berlin.
"Ngày 23/10, cuộc chiến bắt đầu lan vào bên trong nhà máy, các công xưởng bốc cháy cùng với đường sắt, đường bộ, cây cối, bụi rậm và cỏ dại. Tại sở chỉ huy, Kushnarev và tham mưu trưởng Dyatlenko ngồi dưới cống cùng 6 tay súng tiểu liên. Họ có 2 thùng lựu đạn và đã đánh lui được bọn Đức. Quân Đức cho xe tăng xông vào nhà máy. Các công xưởng đổi chủ nhiều lần. Xe tăng địch phải phá huỷ các công xưởng bằng cách bắn thẳng ở cự ly gần. Máy bay địch đánh bom chúng tôi suốt ngày đêm. 1 tù binh Đức, vốn là 1 giáo viên, cho chúng tôi biết quân Đức đã nhận nghiêm lệnh phải tới được sông Volga vào ngày 27/10. Đôi bàn tay tên tù binh đen nhẻm, rận chui cả vào tóc hắn, hắn bắt đầu khóc nức nở."
Mikhalyev, Barkovsky và tham mưu trưởng Mirokhin đã hy sinh, tất cả họ đều được truy tặng huân chương ... Lính tiểu liên Kolosov bị đất vùi lấp đến ngực, anh ta mắc kẹt trong đó nhưng vẫn cười: "Nó làm tôi phát điên!" Trung đội trưởng giao liên Khamitsky vẫn đang ngồi ngoài cửa boongke đọc sách giữa trận bom ác liệt, Sư trưởng Gurtyev tức giận hỏi:
"Anh sao thế?"
"Tôi chẳng có việc gì khác để làm, chúng cứ ném bom thế này thì tôi đọc sách vậy."
Mikhalyev vốn rất được mọi người yêu quý. Khi giờ đây có ai hỏi: "Mọi thứ thế nào?" Câu trả lời là: "Hừ, nói gì đây? Giống như chúng tôi mất cha vậy. Thật tiếc cho quân ta, anh ấy luôn vị tha với mọi người."
Sĩ quan liên lạc Batrakov, 1 nhà hoá học, tóc đen, kính trắng, phải đi bộ 10 - 15km mỗi ngày. Ông tới các sở chỉ huy, lau kính, thông báo tình hình rồi lại đi. Ông ngày nào cũng đến vào 1 giờ chính xác.
"Tình hình trở nên yên tĩnh vào các ngày 12 và 13/10, nhưng chúng tôi hiểu sự yên tĩnh đó có nghĩa gì. Ngày 14 địch bắt đầu pháo kích sở chỉ huy sư đoàn bằng Vanyusha. (*) Boongke chỉ huy trúng đạn nhưng chúng tôi đã ra được khỏi đó, mất 13 hay 14 người thương vong. Đạn của chúng tạo ra tiếng rít chói tai. Mới đầu chỉ là tiếng ken két: "Aha! Hitler bắt đầu kéo vi ô lông," và rồi càng lúc càng to. Vladimirsky đang hấp hối vì trúng đạn khi đang đi WC. Anh ta đã bị đau bụng khi ăn 1 hộp đồ ăn của lính và đã phải nhịn từ lúc đêm xuống."
Phân xưởng 14 bốc cháy từ bên trong. Khi Andryushenko hy sinh, trung tá chính uỷ trung đoàn Kolobovnikov, người đã từng được nhận 4 huân chương và có khuôn mặt sắt đá, gọi điện cho sở chỉ huy và bắt đầu nói: "Thưa đồng chí Thiếu tướng, xin được báo cáo." Ông dừng 1 lúc rồi nói trong tiếng nấc: "Vanya chết rồi!"
1 lính tăng "đánh thuê" (tức là xe tăng phối thuộc cho đơn vị bộ binh): mọi người cho anh ta sô cô la, vodka, vác đạn giúp anh. Và anh đã làm việc như trâu. Ai nấy đều nghĩ anh chính là người của trung đoàn.
"Chúng tôi có lựu đạn, tiểu liên và pháo 45mm chống tăng. 30 xe tăng địch tấn công và chúng tôi đã sợ, đây là lần đầu tiên chúng tôi gặp phải chuyện này! Nhưng ko 1 ai bỏ chạy. Những cỗ xe tăng bò qua những chiến hào. 1 lính Hồng quân ló lên nhìn và cười: "Đào sâu đấy!"
Các bưu tá: Makarevich để ria con kiến, xuất thân nông dân, mang theo cái túi đựng đầy thư từ, postcard, báo chí. Karnaukhov đã bị thương. Đã có 3 bưu tá bị thương, 1 chết ... Khi bị thương, Kosichenko đã giật chốt lựu đạn bằng răng để cho nổ tung tất cả.
Grossman đã viết câu chuyện về cuộc tấn công vào Sư 308 Bộ binh gửi tờ Krasnaya Zvezda, bài báo được đăng 1 tháng sau với tựa đề "Cuộc tổng tấn công của quân phát xít". Ortenberg sau đó có viết về kỹ năng phỏng vấn của Grossman. "Tất cả các phóng viên đi theo Phương diện quân Stalingrad đều kinh ngạc ko hiểu Grossman đã làm thế nào mà sư trưởng, tướng Gurtiev, 1 người Siberi kín đáo và kiệm lời, đã chịu nói chuyện với anh ta 6h liền ko nghỉ, nói tất cả những gì anh ta muốn biết vào 1 trong những thời điểm ác liệt nhất của trận đánh."
Grossman có lẽ cũng bị ảnh hưởng tính mê tín của cánh frontoviki (lính tuyến đầu), kết quả của việc thường xuyên sống với sự chết chóc khó lường nhất, nhưng bản thân ông cũng là 1 nhà văn với những mê tín riêng. Tổng biên tập của ông đã rất khoái chí khi phát hiện Grossman tin rằng tự dán thư từ sẽ đem lại điềm gở. "Khi anh ta viết 1 bài báo, anh ta thường nhờ Gekhman, người thường đi cùng trong các chuyến ra mặt trận: "Efim, anh có bàn tay nhẹ nhàng. Làm ơn lấy bài viết này của tôi bỏ phong bì, dán lại và gửi bưu điện đi Moscow bằng chính tay anh được ko?""
Ortenberg, 1 nhà báo CS cứng rắn, cũng cảm thấy thích thú với cách mà Grossman kiểm tra kỹ lưỡng bản in cuối cùng các bài viết của ông. "Tôi còn nhớ anh ta đã thay đổi thế nào mỗi khi 1 tờ báo có bài của anh ta được chuyển tới. Anh ta tỏ ra rất sung sướng, đọc đi đọc lại bài viết, kiểm tra xem từ này hay từ khác đọc lên nghe như thế nào. Là 1 nhà văn kinh nghiệm, anh ta thực sự tôn thờ chữ nghĩa." Ortenberg có lẽ cũng hơi cường điệu 1 chút khi mô tả như vậy. Grossman thường giận dữ với cách mà người ta sửa chữa hay cắt xén bài của ông. Ông đã viết 1 bức thư cho vợ, Olga Mikhailovna, hôm 22/10:
Anh đã viết 1 bức thư giận dữ gửi Tổng biên tập và giờ đang chờ trả lời mà ko phải ko có chút thích thú. Anh đã viết về thái độ quan liêu và những trò xỏ lá của Ban biên tập.
Thực tế, văn chương của Grossman ít động chạm hơn hầu hết các nhà báo khác. Ortenberg cởi mở thừa nhận rằng nhiều nhà báo quần chúng chịu ảnh hưởng của Grossman. Thậm chí cả những tay bồi bút CS ở Moscow cũng rất quan tâm đến những đề tài mà Grossman đưa ra về những người lính Hồng quân chứ đừng nói đến đông đảo quần chúng. Nó có tác dụng hơn nhiều những câu khẩu hiệu Stalinist đao to búa lớn.
(*) Vanyusha là nickname của loại súng cối phản lực nhiều nòng Nebelwerfer của Đức. Phiên bản kém hiệu quả của Katyusha này vốn có tên nguyên thuỷ là Vanya, sau đó những tay hài hước tưởng tượng điều gì sẽ xảy ra nếu anh chàng Vanya nhỏ thó kết hôn với cô vợ khủng bố Katyusha nên đổi thành nickname như trên. Loại súng này cũng được gọi là "lừa kêu" vì tiếng rít của quả đạn khi bay trong ko khí giống tiếng be be của lừa.
Chỉ ở đây người ta mới hiểu chính xác 1km có ý nghĩa như thế nào. 1km bằng 1.000m, bằng 100.000cm. Những tên lính tiểu liên Drunken (Đức) vẫn điên cuồng dấn tới 1 cách ngoan cố. Giờ chẳng còn ai có thể kể trung đoàn của Markelov đã chiến đấu như thế nào nữa ... Vâng, đơn giản là họ đã hy sinh hết, ko còn ai trở về.
Nhiều lần trong ngày, pháo và cối Đức bất ngờ ngừng bắn, và các phi đội máy bay ném bom bổ nhào cũng biến mất, tạo ra 1 vẻ yên ả kỳ quái. Rồi có tiếng quát của lính canh: "Coi chừng!", lính tại các vị trí tiền tiêu nắm chặt chai cháy (Molotov cocktail), lính chống tăng mở sẵn bao đạn, lính tiểu liên xoa bàn tay lên khẩu PPSh. Khoảng lặng ngắn ngủi này báo hiệu 1 cuộc tấn công.
Ko lâu sau đó là tiếng của hàng trăm chiếc bánh xích rền vang cùng tiếng ro ro của động cơ cho biết đám xe tăng đang di chuyển. 1 trung uý hô: "Chú ý, các đồng chí! Lính tiểu liên sang trái!" Đôi khi bọn Đức tiến gần tới mức những người lính Sibêri nhìn rõ cả khuôn mặt bẩn thỉu và những chiếc áo khoác tả tơi của chúng, nghe được cả thanh âm gầm gừ từ cổ họng chúng ...
Giờ đây khi nhìn lại, ai cũng có thể nhận ra chủ nghĩa anh hùng đã được thể hiện trong từng khoảnh khắc sống của mỗi người lính sư đoàn. Đó là chỉ huy trung đội giao liên Khamitsky, người bình thản ngồi trên 1 mô đất đọc tiểu thuyết trong lúc cả tá Stuka bổ nhào gầm thét xung quanh. Đó là sĩ quan truyền tin Batrakov, người luôn lau kính cẩn thận, bỏ báo cáo vào túi dết rồi cuốc bộ qua 20km "vùng đất chết" như thể đó là 1 cuộc tản bộ trong công viên ngày chủ nhật. (*) Đó là lính tiểu liên Kolosov, người khi bị 1 vụ nổ chôn vùi đến tận ngực trong hầm đã quay nhìn chỉ huy phó Spirin mà cười. Đó là nhân viên đánh máy của sở chỉ huy Klava Kopylova, 1 cô bé má hồng béo ú dân Sibêri, người đang đánh máy chiến lệnh tại sở chỉ huy thì bị chôn vùi trong trận oanh tạc, người ta đã moi được cô lên và cô tiếp tục đánh máy trong 1 căn hầm khác. Cô lại bị chôn vùi lần nữa và lại được moi ra, cuối cùng cô đã đánh máy xong tờ lệnh trong căn hầm thứ 3 và đưa nó cho sư trưởng ký. Đó là những người đã chiến đấu chống lại cuộc tổng tấn công của quân phát xít.
Các balka, hay đường hẻm, thường bị pháo kích và là nơi nguy hiểm nếu địch tính luồn qua đó để ko bị phát hiện, phần lớn chúng chạy dọc theo góc phải của bờ sông Volga.
Những balka rất có tác dụng, đặc biệt là ở đây tại Stalingrad này. Nó là đường di chuyển tốt vì hẹp và sâu. Các sở chỉ huy và khẩu đội cối cũng thường đặt tại đó. Đây là 1 balka nằm dưới tầm hoả lực địch, nhiều người đã hy sinh ở đây. Dây thông tin chạy qua đây, đạn dược cũng được chuyển qua đây. Máy bay và súng cối địch xác định vị trí của nó căn cứ vào các mốc xung quanh. Chamov cũng từng bị vùi lấp ở đây trong 1 vụ oanh tạc, người ta đã moi được anh ra. Bọn thám báo cũng qua đây.
Grossman quan sát cuộc sống tại sở chỉ huy của Gurtiev.
Các báo cáo được viết lên giấy tờ, bao gói, bảng biểu hoặc giấy mời, v.v... tìm thấy trong nhà máy. Zoya Kalganova đã trở lại, cô bị thương lần này là lần thứ 2. Sư trưởng chào mừng cô: "Hello, bé yêu."
Lòng dũng cảm của những nữ nhân viên y tế trẻ được tất cả mọi người khâm phục. Phần lớn các nữ binh sĩ Đại đội quân y Tập đoàn quân 62 là sinh viên hoặc học sinh cấp 3 ở Stalingrad. Sư 308 cũng lấy 1 số phụ nữ từ khắp Sibêri để làm những việc từ y tá, văn thư đến giao liên. Các y tá đi dưới làn đạn để tìm kiếm các thương binh, khiêng hoặc kéo họ vào nơi an toàn. Họ cũng ăn khẩu phần như lính tiền tuyến.
Các cô gái mang bữa sáng đến cho quân ta trong những cái phích vác trên vai. Lính tráng nói chuyện về họ với vẻ hết sức yêu quý. Các cô gái đó ko bao giờ chịu trốn xuống dưới hào.
1 trong những cô gái trẻ đó sau này đã cung cấp cho Grossman danh sách thương vong của các cô gái đã đi cùng cô tới đây từ Sibêri.
(*) Trong bài viết cuối cùng này, chuyến đi diễn ra hàng ngày của Batrakov đã tăng từ 10 - 15km như ghi chép nguyên thuỷ của Grossman lên 20km/ngày.
"Lyolya Novikova, 1 nữ y tá vui tính ko biết sợ là gì bị trúng 2 phát đạn vào đầu. Nina Lysorchuk bị thương. Katya Borodina bị vỡ nát tay phải. Antonina Yegorova hy sinh, cô là 1 y tá mới và đã đi theo trung đội mình trong 1 cuộc tấn công, 1 tay súng tiểu liên địch đã bắn xuyên qua cả 2 chân cô, cô chết vì mất máu. Tonya Arkanova đi theo hỗ trợ 1 số thương binh và được báo cáo là đã mất tích. Galya Kanysheva hy sinh vì trúng bom. Chỉ có 2 người thoát được trong số chúng tôi: Zoya và tôi ... Tôi bị thương vì mảnh đạn cối khi đang ở gần 1 boongke, sau đó lại bị thương 1 lần nữa vì mảnh bom gần bến phà qua sông Volga.
"Chúng tôi từng theo học tại Trường số 13 ở Tobolsk. Các bà mẹ khóc lóc: "Các con sẽ ra sao ngoài mặt trận đây? Ở đó toàn là đàn ông mà." Chúng tôi đã tưởng tượng về chiến tranh rất khác với những gì thực tế xảy ra. Tiểu đoàn chúng tôi nằm ở tuyến đầu trung đoàn, tham chiến vào 10h sáng. Mặc dầu rất sợ, trận chiến vẫn làm chúng tôi bị cuốn hút. Chỉ còn 13 cô gái còn sống sót sau trận đánh trong số 18 cô ban đầu.
"Tôi từng rất sợ những xác chết trong 1 thời gian dài, nhưng 1 đêm, tôi phải núp dưới 1 xác chết khi 1 tên lính tiểu liên địch bắn lia lịa. Tôi nằm ngay dưới cái xác. Hồi đầu tôi rất sợ máu, thậm chí hết muốn ăn gì luôn, nhắm mắt lại tôi cũng vẫn nhìn thấy máu.
"Chúng tôi hành quân 8 ngày liền, 120km, ko ăn ko ngủ. Tôi đã từng tưởng tượng chiến tranh như thế nào - đạn nổ khắp nơi, trẻ con khóc, mèo chạy lung tung, và khi chúng tôi tới Stalingrad thực tế hoá ra đúng như vậy, chỉ khác là khủng khiếp hơn rất nhiều.
"Tôi đang gọt khoai tây với anh nuôi, vừa làm vừa nói chuyện mê mải với các anh lính. Bất thần khói bốc mù mịt, anh nuôi hy sinh, vài phút sau khi trung uý tới lại có 1 quả đạn cối nữa nổ tung làm cả 2 chúng tôi bị thương.
"Thật đáng sợ khi di chuyển trong đêm mà nghe tiếng quát của bọn Đức ngay gần, rồi mọi thứ xung quanh bùng cháy. Thật khó để mang những người bị thương, chúng tôi toàn nhờ các anh lính khiêng thương binh hộ.
"Tôi đã khóc khi mình bị thương. Chúng tôi đã ko thể đi gom thương binh vào ban ngày. Chỉ đúng 1 lần Kazantseva đang cõng Kanysheva thì 1 tên lính tiểu liên bất ngờ bắn trúng ngay đầu cô. Lúc đó là ban ngày, chúng tôi chỉ kéo được họ xuống 1 hố đạn pháo, phải đến tối mới mang được họ đi với sự giúp đỡ của các anh lính.
"Thỉnh thoảng có những lúc tôi đã hối hận vì tình nguyện nhập ngũ, nhưng tôi tự an ủi mình bằng cách tự nhủ ta ko phải người đầu tiên, và cũng ko phải người cuối cùng. Rồi Klava nói: "Những người đã hy sinh đều là người tốt, cái chết của mình chắc cũng làm thay đổi được điều gì đó." Chúng tôi nhận được thư của các thầy cô giáo, họ tự hào vì đã dạy dỗ những đứa con gái như chúng tôi. Bạn bè ganh tỵ với chúng tôi vì chúng tôi có cơ hội được băng bó những vết thương. Bố tôi viết: "Hãy phục vụ đất nước 1 cách trung thực và trở về nhà với chiến thắng." Còn mẹ tôi viết ... Vâng, khi tôi đọc những gì mẹ viết cho tôi, nước mắt tôi rơi lã chã."
Klava Kopylova, văn thư: "Tôi bị chôn vùi trong 1 boongke khi đang đánh máy 1 tờ lệnh. Trung uý gào to: "Còn sống ko?" Họ moi tôi ra. Tôi chuyển sang boongke bên cạnh và lại bị chôn vùi lần nữa trong đó. Họ moi tôi ra tiếp, và tôi lại đánh máy tiếp, đánh cho đến khi xong văn bản. Tôi sẽ ko bao giờ quên vụ đó nếu tôi còn sống. 1 đêm có trận oanh tạc, mọi thứ bốc cháy. Người ta đánh thức tôi dậy. Tất cả các Đảng viên đều đang ở trong boongke, họ chúc mừng tôi hết sức chân thành và vui vẻ. Ngày 7/11 đó tôi đã được nhận thẻ Đảng. Người ta đã thử chụp ảnh tôi nhiều lần để dán vào thẻ Đảng nhưng lần nào cũng bị pháo kích. Trong những ngày yên ả, chúng tôi nhảy múa và hát bài "Chiếc khăn xanh nho nhỏ". (*) Tôi cũng tranh thủ đọc mấy cuốn "Anna Karenina" và "Phục sinh".
(*) Bài hát "Chiếc khăn xanh nho nhỏ" có ảnh hưởng lớn tới mức 1 số binh sĩ đã thêm tiêu đề bài hát vào tiếng hô xung trận chính thức khiến nó trở thành: "Za Rodinu, za Stalina, za Siny Platochek!" - Vì Tổ quốc, vì Stalin, vì chiếc khăn xanh!"
Lyolya Novikova, y tá tập sự: "Bạn bè của Galya Titova kể tôi nghe lần cô ấy đang băng bó cho 1 thương binh thì có bắn nhau dữ dội, người lính hy sinh còn cô ấy bị thương. Cô ấy đứng thẳng dậy nói: "Tạm biệt các chị," rồi ngã xuống. Chúng tôi chôn cất cô ấy ... Các thương binh hầu hết đều viết cho Ctrị viên của họ ... (*) Mặc dù nói được tiếng Đức nhưng tôi ko bao giờ nói chuyện với bọn tù binh, tôi ko muốn nói chuyện với chúng.
"Môn học ưa thích của tôi là đại số. Tôi từng muốn theo học tại Viện Nghiên cứu Chế tạo Máy ... Giờ chỉ còn có 3 chúng tôi trong số 18 cô gái lúc đầu ... Chúng tôi đã chôn cất Tonya Yegorova. Sau trận đầu, chúng tôi mất 2 cô. Chúng tôi đã gặp viên hạ sĩ nói Tonya chết trên tay anh ta, cô ấy nói với anh ta: "Ay, tôi sắp chết rồi, tôi đau lắm, tôi ko biết chân tôi còn hay mất rồi." Anh ta trả lời: "Chân cô vẫn còn." Ko thể đến gần chỗ cô ấy trong 2 ngày vì có 1 chiếc tăng ở đó. Cuối cùng khi chúng tôi đến được, chúng tôi tìm thấy cô ấy nằm dười hào. Chúng tôi thay quần áo cho cô, đặt 1 chiếc khăn mùi xoa vào tay cô, che mặt cô bằng 1 chiếc áo choàng, tất cả chúng tôi đều khóc. Lúc đó có tôi, Galya Kanysheva và Klava Vasilyeva, giờ 2 người kia đều chết cả rồi. Trong quá trình chiến đấu chúng tôi ko được hoà đồng lắm với cánh lính tráng, chúng tôi kiểm tra xem họ có rận ko và cãi nhau với họ suốt. Vậy mà giờ các anh lính đều nói: "Chúng tôi rất biết ơn các cô."
"Chúng tôi tham gia xung phong với trung đội của mình, bò bên cạnh họ, cho họ ăn, đưa nước cho họ, băng bó họ dưới làn đạn. Chúng tôi đã trở nên kiên cường còn hơn cả những người lính và thậm chí còn thường thúc giục họ xông lên. Thỉnh thoảng trong đêm tôi cảm thấy run lên, tôi nghĩ: "Ôi, ước gì mình đang ở nhà."
Trung sĩ Ilya Mironovich Brysin: "Vào 1 buổi tối chúng tôi bắt đầu vác đạn pháo xuất phát từ bến phà, đi qua 6km, đầu tiên là men theo bờ sông, sau đó đi qua 1 balka, vào thành phố và cuối cùng là tới khu vực nhà máy. Mỗi lần mang được 16kg. Chúng tôi bọc đạn trong 1 tấm vải lót, 8 quả mỗi lần. Chúng tôi đi bộ dọc bờ sông dưới làn đạn cối. Ko ai nhìn xuống chân cả, mọi người đều nhìn lên trời cảnh giác. Bom rơi cách chúng tôi chỉ 5m, chúng tôi để những người bị thương lại với mấy người nữa để chăm sóc cho họ, số còn lại tiếp tục đi. Trong đường hẻm (balka), súng cối và tiểu liên địch bắn vào chúng tôi. Chúng tôi đặt tên cho con hẻm này là Con hẻm Chết chóc, nó dài khoảng 400m, cứ đi chỉ độ 5 bước là lại phải nằm xuống 1 lần. 22 người mang theo 200 quả đạn, 10 người đã chết hoặc bị thương ở đây. Khi tới được 1 con phố, dù muốn dù ko chúng tôi cũng phải di chuyển giữa những ngôi nhà. 1 lần chúng tôi đã phải cất giấu 300 viên đạn vì bị bọn địch tấn công với những loạt đạn bắn thẳng. Ôi, lộn ruột làm sao khi phải bắt đầu lại từ đầu.
"Chúng tôi bắn nhau suốt ngày. Bọn Đức chỉ ở cách chúng tôi độ 70m. Nhóm gồm có tôi, Dudnikov, Kayukov, Pavlov, Glushakov và Pinikov. Trước buổi sáng ngày 28 có 1 trung uý đã bò đến chỗ tôi nhưng mắt của anh ta đã bị thương vì mảnh đạn cối. Tôi phải cho anh ta đi, giao Pavlov tháp tùng anh ta. Vậy là chúng tôi chỉ còn 4 người. Bọn Đức tiến lên theo hàng 1, thẳng lưng mà đi.
"Chúng tôi đã đánh bật được chúng ngày hôm đó. Pavlov gọi tôi: "Tấn công thôi." Tôi hỏi: "Cậu có bao nhiêu người?" "10, còn cậu?" "4." "Tốt, tấn công đi!" Và bên kia là cả trăm tên Đức, 2 đại đội SS. (**) Thế đấy, chúng tôi vẫn tấn công chúng.
"Tôi nhảy ra và chạy thẳng về phía trước. "Theo tôi! Ura!" Khi tôi chạy tới căn nhà thứ 2 thì thấy có mỗi 1 mình, bọn Đức chỉ cách 15m. Xung quanh yên lặng, bình minh đang ló rạng. Tôi thấy hơi sợ, tôi lao luôn vào trong nhà và nghe ngóng. Bọn Đức đang bắn từ sau bức tường, chỗ trong góc. Tôi quẳng lựu đạn vào góc qua cửa sổ, 1 quả nữa qua cửa chính. Thật khó nói cảm giác của tôi lúc đó. Tôi muốn lại gần bọn Đức hơn nhưng chúng đã biến mất sau 1 bức tường đất và tôi ko thể bắt kịp chúng.
"Tôi trèo lên tầng 2 qua 1 bức tường vỡ. Tôi đã giấu 8 quả lựu đạn ở đó từ chiều hôm qua. Chúng tôi gọi nó là "xúc xích". (***) Tôi đã đứng đó như đứng sau xong sắt nhà tù, súng lăm lăm trong tay nhưng ko có tên nào ló ra khỏi bức tường. Tôi ném tất 8 quả lựu đạn vào chúng. Chúng bắt đầu bắn vào tôi bằng 2 khẩu súng máy và 1 khẩu cối. Tôi thực sự ko sợ tí nào nữa. Tôi buộc 2 tấm thảm lại với nhau, buộc 1 đầu vào xà ngang rồi trượt theo đó xuống tầng trệt qua 1 lỗ đạn pháo, sau đó bò về với người của mình trong ngôi nhà thứ nhất. Tôi bảo: "Kayukov đã bị thương nặng."
(*) 1 người lính tốt khi bị thương thường sợ sẽ ko được chấp thuận cho trở về đơn vị. Họ cho rằng các quan chức ở hậu phương thường chỉ tập hợp họ lại theo đợt khi tình hình chiến sự lại trở nên cấp thiết và gửi cả đám vào 1 trung đoàn bất kỳ, vì vậy họ viết thư cho Ctrị viên để xin về lại đơn vị.
(**) Phần lớn các báo cáo của lính Hồng quân tại Stalingrad đều nói họ chiến đấu với lính SS nhưng thực tế tại đây ko có đơn vị SS nào. Đây chỉ là kiểu nói để chỉ lính Đức được trang bị tốt và có kỷ luật tốt.
(***) Loại lựu đạn tiêu chuẩn do Soviet sản xuất được gọi là "xúc xích". Lựu đạn Mỹ được cung cấp qua Thoả ước Lend - Lease được gọi là "quả dứa".
"Đại đội trưởng gọi tôi lên: "Cậu có thể đi trinh sát đống xỉ than sau đường tàu hoả ko? Có 1 căn nhà gỗ ở đó." Tôi bảo: "Tôi phải ăn cái đã. Và ngủ 1 chút có được ko?" "Xuống địa ngục mà ngủ!" Trung uý đưa tôi ít bánh mì và đường, nhưng ngay lúc đó đạn pháo bắt đầu bay tới, tôi ko thể ăn được nữa. Thế là tôi phải đi mà chưa được ăn chút gì. Vậy đấy, tôi đi ... đến chỗ đống xỉ than, tôi phát hiện tại đó có 2 khẩu súng máy và 1 cối. Tôi trở lại báo cáo. "Tốt," trung uý của tôi bảo, "anh đã phát hiện ra chúng thì tiêu diệt chúng đi."
"Khi bọn Đức ép quân ta đến dán lưng vào bờ sông Volga, bọn lính tiểu liên của chúng hô lớn: "Bọn Nga, chết đuối chưa!" Và quân ta đáp trả: "Hey, lại đây, chúng mày đang khát phải ko?" (*)
Nhiều binh sĩ bị chết cháy trong những ngôi nhà. Thân xác cháy đen của họ được tìm thấy. Ko ai trong số họ bỏ chạy khi bọn Đức đốt nhà để buộc họ ra hàng.
1 trong những bài viết được hoan nghênh nhất của Grossman đăng trên tờ Krasnaya Zvezda là bài báo có tiêu đề "Trận chiến Stalingrad", 1 tập hợp của những lời mô tả có kèm ví dụ minh hoạ.
Trong ánh sáng của những quả đạn hoả tiễn người ta có thể nhìn thấy những căn nhà bị phá huỷ, mặt đất bị những đường hào rạch ngang dọc, những boongke xây trên vách đá hay dưới khe sâu, những hầm hố được chèn vỏ đồ hộp và gỗ xúc để chống chọi lại thời tiết khắc nghiệt.
"Hey, nghe tôi nói ko? Họ đã mang bữa tối đến chưa?" 1 người lính hỏi, anh ta đang ngồi trước cửa hầm.
"Họ đã đi lấy đồ ăn từ lâu, và anh thấy đấy, họ vẫn chưa về," có tiếng trả lời vọng ra từ màn đêm.
"Chắc họ đã phải ẩn náu vào đâu đó, hay họ sẽ ko bao giờ trở về được ko chừng. Quân địch thường bắn dữ dội vào các bếp dã chiến."
"Quân chấy rận! Tôi thèm được ăn bữa tối quá," người lính đang ngồi trước cửa hầm nói với giọng sầu não, rồi ngáp ...
Bọn Đức cố thủ trong 1 toà nhà quá chắc chắn đến mức người ta phải cho chúng nổ tung cùng với những bức tường dày của toà nhà. Dưới làn đạn dữ dội của những tên Đức cố thủ đang cảm thấy cái chết đang đến gần, 6 công binh mang vác 10 pood (**) chất nổ đã thổi bay toà nhà. Tôi thử tưởng tượng hình ảnh hiện ra trong giờ phút đó - trung uý công binh Chermakov, các trung sĩ Dubovy và Bugaev, các lính công binh Klimenko, Zhukhov và Messereshvili bò dưới làn đạn dọc theo những bức tường đổ, mỗi người mang theo 1,5 pood thứ hoá chất chết chóc, khi đó trước mắt tôi hiện lên hình ảnh những khuôn mặt bẩn thỉu đẫm mồ hôi, những bộ quân phục xơ xác, tôi nhớ tới tiếng hô của trung sĩ Dubov: "Hey, công binh ko được sợ!" Và Zhukhov vừa trả lời vừa chu mồm nhổ đất ra: "Giờ ko có thời gian để sợ. Có sợ thì từ trước kia!" - Tôi đã cảm thấy hết sức tự hào vì họ.
Đây là nơi mà ý nghĩa của các đơn vị đo lường bị đảo lộn, nơi 1 bước tiến chỉ vài mét cũng quan trọng ngang với nhiều km trong điều kiện chiến đấu thông thường, nơi mà khoảng cách tới vị trí địch là ngay ô cửa tiếp theo, tức là đôi khi chỉ hơn chục bước chân. Vị trí đóng sở chỉ huy các cấp theo đó cũng thay đổi, sở chỉ huy cấp sư đoàn cách địch 250m, cấp trung và tiểu đoàn gần hơn nữa với mức tương ứng. "Nếu đường dây liên lạc bị đứt, thật dễ dàng để liên lạc với các trung đoàn cấp dưới chỉ bằng cách hét to," 1 sĩ quan sở chỉ huy sư đoàn nói 1 cách hài hước. "Bạn cứ gào lên, và họ sẽ nghe được, rồi họ chuyển các mệnh lệnh xuống cho các tiểu đoàn cũng bằng cách đó" ... Và trong căn hầm chỉ huy này mọi thứ cứ lộn tùng phèo lên vì bị lắc khi bom và đạn pháo nổ. Các sĩ quan và chỉ huy ngồi phệt dưới đất quanh bản đồ. Và 1 anh giao liên, người luôn xuất hiện trong mọi bài văn về chiến tranh để kêu lên: "Trăng, có trăng kìa!" thì ở đây ngồi khép nép trong xó, tay cầm điếu markhorka (thuốc lá quấn rẻ tiền của lính - Maseo), mặt quay đi để khỏi phà khói thẳng vào mặt các vị chỉ huy.
Sau trận Stalingrad, Grossman nghe được câu chuyện về Gurtyev, sư trưởng Sư 308 Bộ binh, và Zholudev, sư trưởng Sư 37 Bộ binh Cận vệ. Họ đã sát cánh bên nhau trong trận ác chiến tại Nhà máy sản xuất máy kéo, khi những người lính cận vệ của Zholudev bị ép mạnh.
Gurtyev phôn cho Zholudev: "Can đảm lên, tôi có thể giúp anh. Giữ vững nhé!" Khi Zholudev được lệnh chuyển sang bờ trái (tức là rút lui hoàn toàn khỏi trận đánh), ông đã nói với Gurtyev: "Giữ vững nhé, ông bạn già! Can đảm lên!" và cả 2 cùng cười.
Ortenberg cũng kể lại 1 sự việc kỳ cục diễn ra trong 1 chuyến đi của Grossman từ Akhtuba đến Stalingrad, Akhtuba là căn cứ hậu phương trên bờ đông sông Volga. "1 lần hồi giữa tháng 10, Grossman nói với các sĩ quan phụ trách Ctrị Phương diện quân rằng anh ta sẽ tới thăm tướng Rodimtsev vào ngày mai. Lúc này tại đó đang có 2 thùng quà tặng đầy ự do Hội Phụ nữ Hoa Kỳ chuyển tới qua đường bưu điện, vì vậy Grossman đề nghị mang hộ số quà tặng này cho 2 "phụ nữ can đảm nhất trong cuộc phòng thủ Stalingrad". Ban Ctrị Phương diện quân quyết định 2 phụ nữ can đảm nhất chắc sẽ được tìm thấy ở Sư đoàn của Rodimtsev, và Grossman là người phù hợp để chuyển số quà tặng này cho họ. Mặc dù ko phải là người thích các buổi lễ lạt, Vasily Semyonovich vẫn đồng ý làm việc này dù có hơi miễn cưỡng. Cậu ta vượt sông bằng xuồng máy và đến gặp Rodimtsev. Khi 2 cô gái đã đứng trước mặt họ, các cô tỏ ra rất kích động khi được 1 nhà văn nổi tiếng và 1 vị tướng người hùng trao quà tặng. Các cô cảm ơn rồi bắt đầu bóc quà luôn. Bên trong toàn là đồ bơi dành cho nữ và dép lê để đi trên bãi biển, ai nấy đều ngượng chín người. Những bộ áo tắm kiểu cách trông thật xa lạ với môi trường ở đây, giữa tiếng gầm của đại pháo trong trận chiến Stalingrad."
(*) Như đã nói ở chương trước, lính bắn tỉa Soviet bắn hạ mọi kẻ định đi lấy nước. Quân Đức vì vậy phải liều mạng mới lấy được nước, thậm chí phải dùng cách giơ bánh mì ra dụ những đứa trẻ Stalingrad lấy nước mang về cho chúng. Nhưng lính bắn tỉa đã được lệnh bắn hạ bất kỳ dân thường nào, kể cả trẻ em, nếu họ hợp tác với quân địch dưới bất kỳ hình thức nào.
(**) 1 pood tương đương khoảng 16kg, vì vậy 10 pood thuốc nổ có nghĩa là 160kg, 1 lượng nổ khổng lồ.
MƯỜI BẢY
GIÓ ĐÃ ĐỔI CHIỀU
Các trận đánh trong tháng 10 đã diễn ra liên tiếp cho đến cuối tháng thì chấm dứt do quân Đức đã cạn kiệt lực lượng và thiếu đạn dược. Pháo binh Soviet đã tái tổ chức lực lượng ở bên kia sông và giờ đây có thể giáng những đòn nặng nề vào những điểm tập trung quân Đức, pháo binh còn tỏ ra hiệu quả hơn nữa lúc quân Soviet chuyển sang phản công. Paulus dưới sức ép của Hitler vẫn còn mở các cuộc tấn công nhưng chúng đều chỉ có quy mô nhỏ để tránh pháo binh và các dàn Katyusha Soviet, ngoài ra cũng bởi các sư đoàn Đức đã thiếu hụt lực lượng. Nguy hiểm hơn cả, Paulus đã tuân lệnh Hitler sử dụng lính thiết giáp như bộ binh, điều đó có nghĩa là hắn ko còn lực lượng thiết giáp dự bị trong trường hợp bị tấn công bất ngờ.
Hitler bị ám ảnh với việc chiếm Stalingrad - 1 chiến thắng phụ để lấp liếm thất bại của hắn trong kế hoạch chiếm vựa dầu mỏ Caucasus - nên vẫn ko dừng việc thúc ép. Ngày 8/11, Hitler đã có bài phát biểu về vấn đề này tại Munich được phát trên đài truyền thanh. "Tôi muốn đến được Volga," hắn tuyên bố cương quyết, "chính xác chỗ đó, chính xác thành phố đó, để thay cái tên đáng ghét của chính Stalin." Sau đó hắn còn khoác lác rằng "thời gian bao lâu ko quan trọng."
Hitler ko thể sai lầm hơn được nữa, thời gian chính là điều quan trọng nhất. Mùa đông đang đến rất gần, và đây chính là mùa của các cuộc phản công Soviet. Lính Đức gọi điều kiện thời tiết khắc nghiệt của mùa đông là "thời tiết dành cho người Nga". Grossman, ko biết tí gì về các kế hoạch sắp tới, viết thư cho cha vào ngày 13/11, chỉ 1 tuần trước cuộc tổng phản công.
Con làm việc rất nhiều, làm đến stress luôn, và thấy mệt gớm chết. Con ko hề có 1 chỗ trú chân ấm áp đúng nghĩa. Thư từ ko đến được tay con ở đây, chỉ có 1 lần họ mang cho con cả 1 thùng thư, trong đó có 1 bức thư và 1 postcard của cha ... Lúc này thời tiết ở đây thật quá lạnh lẽo.
Cả bộ chỉ huy của Hitler đặt tại Đông Phổ lẫn bộ chỉ huy Tập đoàn quân 6 Đức đều ko nhận thức đầy đủ được rằng Stavka (Tổng hành dinh - Bộ chỉ huy tối cao Soviet) tại Moscow đã sử dụng Tập đoàn quân 62 như 1 miếng mồi đặt trong 1 cái bẫy khổng lồ. Quân Đức biết rằng có nguy cơ tồn tại ở các cánh của chúng - phần hậu tuyến cánh trái dọc theo sông Đông do Tập đoàn quân 3 Rumany phụ trách và phần tiền tuyến phía nam Stalingrad do Tập đoàn quân 4 Rumany trấn giữ. Việc quân Soviet tập trung tại các khu vực này đã được phát hiện, nhưng quy mô và mục đích của chiến dịch lại bị đánh giá cực kỳ sai lầm. Mọi ý kiến lo ngại rằng Hồng quân có thể bao vây quy mô lớn Tập đoàn quân 6 theo đúng cách các cụm thiết giáp Đức đã bao vây quân Soviet 1 năm trước đây đã bị coi là ko thể xảy ra.
Tướng Chuikov, vẫn còn 1 mình trấn giữ Stalingrad, cũng có những vấn đề của riêng ông. Sông Volga đã bắt đầu đóng băng nhưng chưa đủ cứng. Những cơn mưa tuyết lớn đổ xuống sông có nghĩa là việc vận chuyển qua sông giờ đây trở nên cực kỳ nguy hiểm. Tuy nhiên ngày 19/11, Chiến dịch Sao Thổ (Uranus) đã được bắt đầu ở cách Stalingrad 150km về phía tây bắc với 1 cuộc tấn công quy mô lớn vào Tập đoàn quân 3 Rumany. Sáng hôm sau, 1 cuộc tấn công nữa giáng mạnh vào Tập đoàn quân 4 Rumany ở cách Stalingrad 50km về phía nam. Đến trưa ngày 21/11 người Đức đã nhận ra rằng 300.000 người của Tập đoàn quân 6 sắp bị cắt rời mà họ chẳng thể làm gì được.
Grossman đã xin được đi theo Quân đoàn Kỵ binh 4, đơn vị bảo vệ vành ngoài sườn trái của 2 quân đoàn cơ giới đang tấn công. Theo Ortenberg, Grossman đã "chứng kiến việc khởi sự tấn công từ vị trí quan sát của 1 sư đoàn, và sau đó hành quân bộ cùng những người lính đang tiến tới, cậu ta đã mô tả 1 cách hết sức truyền cảm mọi thứ nhìn thấy dọc đường."
1 người lính đã từng là tù binh chiến tranh trong cuộc Đại Chiến lần trước quan sát 1 chiếc máy bay đang bổ nhào: "Chỉ là 1 cuộc ném bom vớ vẩn," ông nói.
Mọi người lao lên xung phong, bảo vệ mặt bằng xẻng công binh. Trong 1 cuộc tấn công, 1 khẩu súng trường tốt hơn là 1 khẩu tiểu liên.
Lính Rumany mặc quân phục nâu và đội mũ da cừu kiểu dân Balkan, họ thiếu các trang thiết bị hiện đại và súng chống tăng, chỉ huy tồi. Quân Rumany nhanh chóng ném những khẩu súng trường xuống đất và hô "Antonescu kaputt!" (*), nhưng việc đầu hàng ko cứu được họ. Hàng nghìn tù binh đã bị bắn ko ai có thể kiểm soát nổi, và những con đường phủ đầy tuyết rải đầy những mảnh vụn của đạo quân thua trận.
(*) Nguyên soái Ion Antonescu (1822 - 1946), nhà độc tài Rumany, đồ đệ trung thành nhất của nước Đức trong cuộc xâm lược Liên Xô. Tuy nhiên việc các đội quân trang bị yếu kém của hắn tan vỡ dễ dàng trong trận Stalingrad khiến người Đức cực kỳ oán hận kẻ đồng minh mang đến toàn vận rủi này.
Binh lính đang hành quân, tinh thần của họ giờ mỗi lúc 1 cao. "Ah, khi nào tới Kiev chắc sẽ rất tuyệt." Người khác nói: "Ah, tôi thích tới Berlin!"
1 hình ảnh: 1 hoả điểm bị 1 chiếc xe tăng tiêu diệt, tại đó có 1 tên Rumani đã bị là phẳng, chiếc tăng đã chèn qua hắn, khuôn mặt hắn biến thành 1 bức phù điêu. Bên cạnh hắn là 2 lính Đức cũng đã bị nghiền nát. Còn có 1 chiến sĩ ta nằm trong hào, bị chôn vùi 1 nửa.
Mặt đất đầy vỏ đồ hộp, lựu đạn, những mảnh băng rướm máu và những trang tạp chí Đức. Quân ta ngồi lẫn lộn giữa những xác chết, cắt từng miếng thịt của 1 con ngựa chết bỏ vào vạc nấu, huơ huơ đôi bàn tay lạnh giá trước ngọn lửa.
1 xác lính Rumani nằm cạnh xác 1 lính Nga giữa chiến địa. Người lính Rumani có 1 tập giấy đầy những bức vẽ trẻ con vẽ những con thỏ hay những con tàu. Người lính Nga có 1 bức thư: "Buổi chiều tốt lành, hay có khi là buổi tối tốt lành, con chào bố ... " Và cuối thư viết: "Về với con đi, vì khi bố ko ở đây con về nhà mà thấy nó cứ như nhà thuê. Con nhớ bố nhiều. Về thăm con cũng được, con ước được nhìn thấy bố, dù chỉ 1h. Con đang viết đây mà nước mắt rơi. Con gái Nina của bố."
Trong cuộc tiến công thần tốc, chiến tuyến trở nên ko rõ ràng, Grossman đã gặp phải 1 nguy hiểm bất ngờ. Khi đó ông đang đi cùng với Aleksei Kapler, đạo diễn phim và là mối tình đầu của Svetlana Stalin. Vì đã liều mạng làm cô con gái rượu của nhà độc tài phải lòng, năm 1943 Kapler đã bị người của Beria cho ăn đòn và tống đi trại Gulag trong 10 năm. Sau khi Stalin chết, Kapler đã kể lại chuyến đi cùng với Grossman này. "Chúng tôi lang thang qua 1 căn nhà trống và quyết định ở lại đây đêm nay. Sau đó có vài binh lính xuất hiện, chúng tôi nhìn thấy bóng họ in trên trần nhà và nhận ra đó ko phải quân ta vì mũ sắt ko giống. Thì ra chúng là lính Rumani. May thay chúng ko phát hiện ra chúng tôi và bỏ đi."
Lính Hồng quân đã vô cùng giận dữ khi phát hiện ra đám tù binh Rumani đã từng cướp bóc nhà cửa của dân địa phương. "Khăn trùm đầu của các bà già và khuyên tai, khăn bàn, váy, tã trẻ con, áo choàng sáng màu của các cô gái. 1 tên lính có tới 22 đôi tất trong tư trang."
Vui sướng nhất là những người dân mới đuợc giải phóng.
"Làm thế nào mà chúng tôi nhận ra quân ta tới áh? Chúng tôi nghe ngóng bên cửa sổ: "Yegor, tiếng máy nổ nghe khác hẳn! Quân ta rồi!" chúng tôi hò reo."
Họ nhanh chóng nói rõ những việc làm ghê tởm của bọn lính Rumani, những kẻ đã học theo bọn Đức đánh đập thường dân cho đến khi họ phải khai ra chỗ cất giấu lương thực.
Bọn Rumani. 1 ông cụ gọi chúng là "bọn Thổ Nhĩ Kỳ”. Thực ra chúng là dân Digan, chúng luôn nói: "Chiến tranh thật xấu xa, chúng tôi sẽ về nhà." Nhưng chúng đã đánh ông cụ 4 lần bằng roi, buộc ông đi thu hoạch lúa mì về rồi chúng lấy sạch ko sót chút gì, đóng thùng lương thực để ăn dần.
1 số thường dân cũng gặp phiền phức vì những hoạt động của quân đội Soviet.[i/]
1 bà cụ kể cho chúng tôi nghe việc phi công ta đã làm bà bị thương: "Hắn thả 1 trái bom, thằng chó đẻ, ĐM nó chứ," bà nói với giọng giận dữ, sau đó nhìn thấy 1 viên chỉ huy đang tháo ủng bà vội sửa lại: "Chó đẻ, cún con ấy mà. Giờ chả còn con bò nào, ko có con nào để dắt đi chăn, ko có con nào để dắt về. Chúng tôi chẳng còn vật nuôi nào nữa."
[i]Những ghi chép của Grossman đã được tập hợp trong bài viết "Trên đường tiến quân" của ông viết về cuộc phản công ở nam Stalingrad.
Băng trôi trên sông Volga, những khối băng nghiến ken két, vỡ ra khi húc vào nhau, mặt sông gần như phủ đầy băng. Chỉ thỉnh thoảng mới thấy được vài khoảng nước trên suốt bề rộng con sông. Volga như 1 dải băng trắng trôi giữa 2 bờ tối đen ko có tuyết phủ. Lẫn trong băng là những cành cây, những xúc gỗ, 1 con quạ lớn đang đậu trên 1 mảng băng trôi. Xác 1 lính thuỷ Hồng quân mặc sơmi có sọc ngang đen trắng trôi qua, thuỷ thủ trên 1 con tàu hàng chạy bằng hơi nước vớt anh lên. Thật khó để kéo xác anh lên khỏi mặt sông băng, xác anh dính chặt vào băng mất rồi, như thể anh ko muốn rời khỏi dòng sông Volga, nơi anh đã chiến đấu và hy sinh.
Những chiếc phà chở đầy tù binh Rumani vượt qua trước mặt chúng tôi. Tù binh đứng trên phà, khoác những tấm áo choàng chật chội, đôi mũ trắng cao, dậm dậm chân, xoa xoa đôi bàn tay lạnh giá. "Giờ chúng đã đến được Volga," những người lái phà nói.
1 tốp 200 tù binh thường được dẫn giải đi chỉ với 2 - 3 lính canh. Đám Rumani đi rất có tổ chức, 1 số tốp thậm chí còn sắp thành hàng và bước đều khiến những người nhìn thấy cảnh đó phải bật cười ... Tù binh lũ lượt đi qua thành từng tốp, phát ra tiếng kêu lanh canh từ đồ hộp và chai lọ bẩn thỉu mà chúng đeo theo người bằng thừng hay dây thép, vai khoác những tấm chăn đủ màu. 1 phụ nữ vừa nói vừa cười: "Oh, những tên Rumani này đi trông giống hệt dân Di gan."
Xác lính Rumani nằm dọc các con đường; những khẩu pháo bị bỏ lại nguỵ trang bằng cỏ khô của thảo nguyên vẫn còn chĩa về hướng đông. Những con ngựa đi lang thang trong các balka, kéo lê phía sau những cỗ xe đã gãy hỏng, những chiếc ô tô trúng đạn pháo vẫn còn bốc khói xám xanh. Trên đường những chiếc mũ sắt trang trí huy hiệu hoàng gia Rumani vứt bừa bãi cùng hàng ngàn băng đạn, lựu đạn, súng ống. 1 hoả điểm của quân Rumani: ngọn núi trống ko, những băng đạn bám đầy bồ hóng nằm vương vãi trong những ổ súng máy, hàng tập giấy viết trắng tinh bị vứt dưới giao thông hào. Thảo nguyên mùa đông vốn có màu nâu giờ biến thành màu đỏ gạch vì máu. Những khẩu súng trường vỡ báng vì đạn Nga. Và hàng đàn tù binh vẫn diễu qua chúng tôi liên miên.
Tù binh bị khám người trước khi chuyển về hậu phương. Hàng đống tư trang của phụ nữ nông dân đã được tìm thấy trong ba lô và túi quần túi áo của bọn Rumani trông thật đáng cười và đáng khinh. Có khăn trùm đầu của các bà già, khuyên tai phụ nữ, đồ lót, váy, tã lót. Càng đi xa chúng tôi càng thấy nhiều xe cộ và súng ống bị bỏ lại. Có đủ xe tải, xe thiết giáp và xe con chở sĩ quan.
Chúng tôi tới Abganerovo, 1 bà cụ nông dân kể cho chúng tôi về 3 tháng sống dưới ách chiếm đóng. "Mọi thứ ở đây đều trở nên trống rỗng, chẳng còn 1 tiếng gà mái cục tác, 1 tiếng gà trống gáy. Ko còn 1 con bò nào để dẫn đi chăn buổi sáng và dẫn về chuồng buổi tối. Bọn Rumani đã cướp đoạt mọi thứ. Chúng đánh tất cả đám già cả tụi tôi: người thì vì bị báo là ko đi làm, người khác thì vì đã mó máy vào lúa mì của chính mình. Starosta (trưởng làng do bọn phát xít chỉ định ở những vùng chiếm đóng) làng Plodovitaya đã bị chúng cho ăn roi 4 lần. Chúng đã mang con trai tôi đi, nó bị què, cùng với 1 bé gái và 1 bé trai 9 tuổi. Chúng tôi kêu khóc suốt 4 ngày mong chúng trở về."
Ga Abganerovo đầy trang thiết bị thu được của địch, bọn Đức đã thay thế đường tàu ở đây. (*) Có những toa chở hàng của Pháp, Bỉ và cả của Ba Lan. Có những đoàn tàu chất đầy bột mì, ngô, mìn, đạn pháo, mỡ chứa trong thùng lớn hình vuông, những toa hàng chất đầy ủng valenki rẻ tiền có đế bằng gỗ dày, mũ da cừu, máy móc, đèn pha. Những teplushkas (toa tàu có sưởi - Maseo) y tế trông thật thảm hại vì cuộc rút chạy cuống cuồng của địch đã khiến những chiếc giường phủ đầy giẻ bẩn. Lính tráng càu nhàu khi phải mang những bao bột mì ra khỏi toa hàng chất lên xe tải, mỗi bao đều có hình con đại bàng Nazi in đậm trên vỏ bao.
Khuôn mặt những người lính Hồng quân đỏ au vì những đợt gió mùa đông lạnh buốt. Chiến đấu trong điều kiện thời tiết này thật ko dễ dàng gì. Trong những đêm đông dài, ngọn gió băng giá của thảo nguyên có thể xuyên qua mọi thứ. Nhưng những chiến sĩ vẫn vui vẻ hành quân, vì đây là đi đến Stalingrad. Quân đội ta lúc này có tinh thần đặc biệt cao.
Kể từ ngày 26/11, hơn 1/4 triệu quân của Tập đoàn quân 6, cấp tổ chức lớn nhất trong quân đội Wehrmacht, do Paulus chỉ huy đã bị bao vây giữa sông Volga và sông Don. Hồng quân do đánh giá thấp quy mô của lực lượng đang bị bao vây này nên đã ngay lập tức mở hàng loạt đợt tấn công nhằm đập tan vành đai phòng thủ, nhưng người Đức tin rằng Hitler sẽ ko bao giờ bỏ rơi họ đã chống chả kịch liệt.
1 ngày đẹp, trời trong sáng. Pháo chuẩn bị. Katyusha. Ivan Hung đế. Gầm rú. Khói bụi mù mịt. Và thất bại. Bọn Đức đã rúc kỹ dưới hào, và quân ta ko thể trục chúng ra.
Thời tiết mỗi lúc 1 xấu đi, tuyết rơi và băng đóng cứng làm giảm cơ hội đánh tháo ra của Tập đoàn quân 6. Hồng quân quen thuộc với những điều kiện thời tiết này hơn nhiều.
Trận tuyến trên thảo nguyên trong mùa đông. Hố cá nhân được trùm vải bạt, lò sưởi được làm từ mũ sắt, ống khói làm bằng vỏ đạn pháo, nhiên liệu là cỏ dại. Trên đường tiến quân, 1 người lính mang theo cả 1 ôm cỏ khô, người khác ít vỏ bào, người thứ 3 mang vỏ đạn, thứ 4 mang lò sưởi.
Đầu tháng 12, Grossman quay lại bờ đông đối diện với Stalingrad. Ông viết cho Tổng biên tập tờ Krasnaya Zvezda.
Thưa đồng chí Ortenberg, tôi đang có kế hoạch tới thành phố ngày mai, tôi muốn viết 1 bài dài (**), nhưng tôi nhận thấy tôi phải trì hoãn việc này và bỏ chút thời gian thu thập tài liệu trong thành phố. Do hiện nay việc vượt sông rất phức tạp (***) nên chuyến đi của tôi sẽ kéo dài ít nhất 1 tuần. Đó là lý do đồng chí ko nên tức giận nếu bài viết của tôi chậm gửi cho đồng chí. Tại thành phố, kế hoạch của tôi là sẽ phỏng vấn Chuikov, các sư trưởng và đến thăm các đơn vị tiền tuyến. Cũng phải nói rằng tôi rất muốn trở về Moscow vào khoảng tháng 1, tôi sẽ rất biết ơn nếu đồng chí có thể triệu hồi tôi vào lúc đó. Thực tế tôi cảm thấy hơi quá tải vì áp lực gửi bài và kiệt sức sau 3 tháng căng thẳng vừa qua ở Stalingrad. Nếu có điều gì ko may bất ngờ xảy ra với tôi trong chuyến vào thành phố sắp tới, mong đồng chí giúp đỡ gia đình tôi. Vasily Grossman.
Grossman đã vượt được sông và tới sở chỉ huy Tập đoàn quân 62. Mọi việc đang rất khẩn trương vì lúc này đang thiếu hụt đạn dược cũng như lương thực cho việc bao vây quân Đức. Lực lượng phòng thủ còn lại của chúng được tiếp tế hoàn toàn nhờ vào đường ko qua sân bay Pitomnik nằm ở trung tâm khu vực bị bao vây. Goering đã nói với Hitler rằng hoàn toàn có thể tiếp tế cho Tập đoàn quân 6 bằng đường ko mặc dù các tướng lĩnh Luftwaffe đã cảnh báo hắn rằng nhiệm vụ to lớn này là ko thể thực hiện được. Binh lính Tập đoàn quân 6 được tuyên truyền để giữ vững niềm tin hão huyền rằng 1 tập đoàn quân thiết giáp SS đang tới tiếp viện. Tướng Chuikov nói với Grossman: "Có tin đồn lan truyền trong bọn Đức rằng đích thân Hitler đã tới thăm Pitomik và phát biểu tại đó như sau: "Hãy đứng vững! Tôi đang dẫn quân đội ta đến cứu các bạn." Và hắn ăn mặc như 1 cai đội."
Tin đồn này lan khắp mặt trận cũng giống như 1 câu chuyện bốc phét tương tự bên phe Soviet rằng trong những ngày tuyệt vọng tháng 9 đích thân Stalin đã đến thăm Stalingrad.
(*) Kích thước đường ray tàu hoả ở Nga khác với ở Tây Âu.
(**) Tất nhiên hầu hết các bài viết của Grossman là viết về những người lính Stalingrad.
(***) Sông Volga vẫn chưa đóng băng cứng, vì vậy việc vượt sông là cực kỳ nguy hiểm và ko thể đoán lúc nào qua được.
Chuikov nói qua tình hình Tập đoàn quân 62 của ông, thực tế tập đoàn quân cũng đang phải đối mặt với việc ko thể tiếp tế qua sông Volga chưa đóng băng hẳn. Việc trao đổi thông tin với bờ đông cũng hầu như hoàn toàn phải dùng điện đài vì mọi dây liên lạc hữu tuyến đều bị băng cắt đứt. Thuận lợi lớn nhất của tập đoàn quân lúc này là đã di dời hết các điểm tập trung pháo binh bên bờ tây sang bên kia sông nên ko cần quan tâm đến việc tiếp tế đạn pháo.
Grossman mô tả boongke của Chuikov trong bài viết tiêu đề "Hội đồng quân sự".
Khi có ai bước vào boongke hay các hầm ngầm dành cho sĩ quan và binh lính, người đó sẽ cảm thấy mong ước cháy bỏng được giữ lại khoảnh khắc đặc biệt độc nhất vô nhị này trong đời. Những cái đèn và ống thông hơi làm từ vỏ đạn pháo, cốc tách cũng làm từ vỏ đạn đặt trên bàn cạnh những cặp kính. Cạnh 1 quả lựu đạn chống tăng là 1 cái gạt tàn bằng sứ trên có dòng chữ "Hỡi những bà vợ, chớ làm chồng các bà nổi giận". Trong boongke tham mưu trưởng có 1 đống tướng đèn điện, Chuikov cười bảo: "Vâng, nó là 1 cây đèn trùm. Chúng ta đang sống trong 1 thành phố phải ko?" Có cả tiếng nhạc kịch của Sêchxpia trong nhiệm sở dưới lòng đất của tướng Gurov ... Tất cả đều có ấm samova và máy hát, bát đựng đường gia đình màu xanh, gương tròn đế gỗ đặt sát những bức tường đất của mỗi căn hầm. Tất cả những thứ đó thường được thấy trong 1 căn hộ yên bình, chúng đã được cứu ra khỏi những căn nhà cháy.
Grossman mặc dù cực kỳ sung sướng với chiến thắng chắc chắn sẽ tới trước Tập đoàn quân 6 nhưng càng ngày càng bực mình với cách mà ban biên tập tờ Krasnaya Zvezda sửa chữa các bài viết của ông. Ông viết cho vợ về chuyện này hôm 5/12.
Anh làm việc rất nhiều. Em có thể nhìn thấy điều đó trên báo. Giá mà em thấy được cả việc họ đã cắt xén và xuyên tạc những bài viết của anh như thế nào, và ko chỉ có thế, họ còn nhét thêm những đoạn mới vào mấy bài viết khốn khổ của anh, có lẽ em sẽ khó chịu hơn là vui sướng khi thấy các bài viết của anh toàn những điều tươi sáng. Ban biên tập đã đề ra quy định cắt bỏ phần kết của mọi bài viết, thay các dấu chấm phẩy, bỏ qua những đoạn mô tả anh đặc biệt thích, thay tiêu đề và thêm vào những đoạn như này: "Niềm tin và tình yêu này đã gần như tạo nên phép màu." Việc biên tập vội vàng này do các biên tập viên cao cấp làm hẳn hoi, và thỉnh thoảng anh phải đọc đi đọc lại 1 đoạn mới hiểu nó có nghĩa gì. Tất cả những cái đó làm anh cực kỳ khó chịu vì anh đã viết nên chúng trong những điều kiện cực kỳ khó khăn ...
Tập đoàn quân 62 của Chuikov liên tục thiếu đồ hậu cần - bao gồm cả markhorka và vodka - trong suốt thời gian băng trên sông Volga đóng chưa đủ dày. Cuối cùng, ngày 16/12 mặt sông mới đóng băng hết. Đầu tiên người ta làm 1 cái cầu bằng ván gỗ cho người đi bộ qua sông. Sau đó là làm hẳn thành 1 con đường bằng cành cây được giội nước lên để gia cố mặt băng, khi các cành cây ướt đóng băng cứng lại thì xe tải thậm chí pháo hàng nặng cũng đi qua được. "Băng đóng tốt!" Những người lính Hồng quân viết thư về nhà như vậy 1 cách sung sướng. Được biết trong chưa đầy 2 tháng, 18.000 xe tải và 17.000 xe cộ khác đã vượt sông qua cầu băng. Grossman chào mừng sự tiến triển này qua bài viết tiêu đề "1 ngày mới".
Tất cả những người trong cả trăm ngày qua đã trấn giữ bến phà qua sông Volga và qua lại trên dòng sông băng xám xịt đều nhìn thẳng vào đôi mắt tàn nhẫn và giảo hoạt của thần chết. Mỗi ngày lại có ai đó hát lên bài hát về những người đã vĩnh viễn ngủ say trên chiếc giường mang tên Volga ...
Đêm xuống, chúng tôi có thể đi bộ qua sông Volga. Băng đã đóng được 2 ngày và ko còn uốn cong dưới chân nữa. Ánh trăng soi tỏ con đường tạo bởi những vết xe trượt tuyết kéo dài mãi ko dứt. 1 lính giao liên đi trước chúng tôi, nhanh nhẹn và tự tin như thể anh ta đã đi trên con đường này suốt nửa cuộc đời. Bất thần có tiếng băng nứt, người giao liên tới 1 mảng băng trống trải và rộng, dừng lại rồi nói: "Aha! Chúng ta sẽ phải đi qua 1 con đường xấu, giữ ở bên phải tôi." Giao liên bao giờ cũng trấn an bằng những lời ngắn gọn dứt khoát, luôn đưa bạn vào những nơi an toàn.
Những chiếc sà lan bị đạn pháo bắn nát đã đóng cứng vào băng. Những sợi cáp phủ băng lấp lánh sáng xanh. Đuôi sà lan dựng ngược lên, tạo thành mái vòm che những chiếc thuyền máy đã chìm.
Chiến sự vẫn tiếp diễn ở khu vực các nhà máy ... Đại bác bắn với những tiếng bang, tiếng gầm, sau đó là tiếng nổ của quả đạn dội lại khô khốc và vang vọng. Thông thường, những loạt đạn súng máy và tiểu liên có thể nghe thấy rõ, thứ âm nhạc này thường lén lút vang lên giữa những xưởng máy yên tĩnh, nghe giống như tiếng tán đinh hay tiếng búa máy nện xuống thanh thép, là phẳng nó ra. Cũng giống như thép nóng chảy và xỉ quặng tuôn vào khuôn, những tiếng nổ cũng thắp sáng dòng sông băng tinh khiết Volga trong sắc hồng rực rỡ.
Mặt trời mọc rọi sáng cạnh những hố bom lớn, đáy của những cái lỗ đáng sợ này vẫn luôn tăm tối. Ánh mặt trời sợ phải chạm đến chúng ...
Mặt trời toả sáng trên hàng trăm đoạn đường tàu rải rác đầy những toa xi téc nằm đó như những con ngựa chết với thùng téc vỡ toác; nơi đó hàng trăm toa hàng lật ngang toa này nằm ép vào trần toa khác, chúng bị thổi tới đó vì sức ép của 1 vụ nổ, nằm túm tụm quanh đám đầu tầu lạnh lẽo như thể đám đông hoảng sợ xúm quanh những người lãnh đạo.
Chúng tôi đang đi trên mảnh đất hoang tàn đầy hố bom và đạn pháo - những tên bắn tỉa và lính canh Đức có thể nhìn khắp khu vực này dễ dàng, nhưng người lính Hồng quân gầy gò khoác áo choàng vẫn đi bên tôi 1 cách bình thản và chẳng có vẻ gì vội vã. Anh giải thích đơn giản: "Đồng chí cảm thấy tốt hơn nếu chúng ko thể nhìn thấy ta àh? Hừ, chúng có thể đấy. Ở đây chúng tôi thường phải bò vào ban đêm, nhưng giờ thì khác: chúng phải tiết kiệm số đạn còn lại."
Đi qua 1 đống phế phẩm kim loại han rỉ, đi qua 1 cái gầu múc thép nóng chảy khổng lồ, đi qua những tấm thép và những bức tường đổ. Những người lính Hồng quân đã quá quen thuộc với những tàn phá ở đây đến nỗi quên cả việc chú ý đến tất cả những điều đó. Ngược lại, điều được xem là thú vị ở đây là có 1 khu nhà văn phòng điều hành của nhà máy đã bị phá huỷ hoàn toàn nhưng còn 1 ô cửa sổ vẫn nguyên vẹn, 1 ống khói cao, 1 căn nhà gỗ cũng vẫn sống sót 1 cách phi thường. "Nhìn kìa, căn nhà này vẫn còn sống," những người đi qua vừa thốt lên vừa cười.
Ko có gì ngạc nhiên, đến giữa tháng 12 thì Grossman đã tỏ ra khổ sở quá mức vì tình trạng căng thẳng triền miên, ông đã viết thư cho cha 1 lần nữa.
Con nghĩ con sẽ về Moscow vào tháng 1. Con ổn nhưng rất căng thẳng thần kinh. Con đã trở nên cáu kỉnh và dễ bị kích động nên thường xuyên công kích các đồng sự. Giờ họ phát sợ con. Con ko thể rời chỗ này ngay và cũng ko muốn thế. Cha xem, giờ vận may đã trở lại với quân ta, ko ai muốn rời khỏi đây khi đã chứng kiến qua những thời khắc khó khăn ác liệt nhất.
Khi ngày rời Stalingrad đã đến gần, Grossman trở nên càng lúc càng lơ đãng với những gì ông đã phải trải qua.
Những người lính Hồng quân tắt máy hát. "Bật đĩa hát nào tiếp theo đây?" 1 người hỏi. Nhiều tiếng nói cất lên: "Đĩa này." "Đĩa kia."
Sau đó 1 điều khác lạ xảy ra. Trong khi những người lính đang chọn đĩa, tôi nghĩ: Thật tuyệt nếu được nghe bài hát ưa thích của mình trong căn nhà đổ cháy đen này. Và bất thần, trong ko khí trang nghiêm, tiếng hát u buồn cất lên: "Cơn bão tuyết đang gào thét ngoài cửa sổ ... " Những người lính Hồng quân chắc cũng rất thích bài hát này, mọi người ngồi lặng im, chúng tôi nghe đi nghe lại bài hát đến cả chục lần:
"Hỡi Thần Chết, chúng tôi xin người,
Xin hãy đợi ngoài kia."
Những lời ca và bản nhạc bất hủ của Beethoven vang lên tại đây mạnh mẽ ko sao tả xiết. Với tôi, đây có lẽ là khoảnh khắc xúc động nhất trong cả cuộc chiến ... Và tôi nhớ tới những bức thư nhỏ bé viết bởi bàn tay trẻ con tìm thấy bên 1 người lính hy sinh trong 1 cứ điểm. "Buổi chiều tốt lành, hay có khi là buổi tối tốt lành, con chào Tyatya (bố) ... " Và tôi nhớ đến người Tyatya đã hy sinh, chắc anh đã đọc bức thư đó khi sắp chết, và tờ giấy bị vò lại nằm bên đầu anh.
PHẦN BA
GIÀNH LẠI NHỮNG VÙNG TẠM CHIẾM
1943
MƯỜI TÁM
SAU TRẬN CHIẾN
Trong tháng 12/1942, trận chiến Stalingrad giảm dần cường độ trong khu vực thành phố. Chiến sự ác liệt chỉ còn diễn ra bên ngoài trên những thảo nguyên băng giá giữa 2 con sông Volga và Don, tại đây 7 Tập đoàn quân Soviet bao vây đang cố đập tan sự chống cự ngoan cố của Tập đoàn quân 6 và bỏ đói chúng. Nhưng quân Đức (Wehrmacht) trong vòng vây vẫn còn mạnh. Trong thành phố, có cảm giác các bên đều chống lại việc đẩy mạnh chiến sự xuất phát từ sự pha trộn giữa những suy nghĩ muốn xả hơi, nghỉ ngơi và nỗi buồn vì những tổn thất khủng khiếp. Grossman đã xúc động sâu sắc khi phát hiện ra mộ của người cháu họ hôm 29/12.
Mộ của Yura Benash nằm bên sở chỉ huy của Mikhailov - bạn phải leo ra đằng sau nó. Sở chỉ huy nằm trên vách đá cao, 4 ngôi mộ nằm ngay sau vách đá đó.
Ông viết về chuyện này cho vợ ngay sau khi trở lại bờ đông.
Lyusenka yêu quý nhất của anh, anh vừa từ thành phố về đây, anh định viết vài câu chuyện mà. Anh vượt sông bằng cách đi bộ trên mặt băng. Chuyến đi vừa rồi gây cho anh xúc động sâu sắc. Tưởng tượng xem, người yêu của anh, anh đã thấy mộ của Yura Benash, con trai của Vadya, nằm trên vách đá nhìn xuống sông Volga. Anh đã tìm gặp trung đoàn trưởng của cậu ấy và ông đã kể chi tiết về trường hợp của Yura. Yura là 1 tiểu đoàn trưởng, cậu ấy đã chiến đấu như 1 người anh hùng. Đại đội chống tăng của cậu ấy đã bắn hạ 16 xe tăng địch. Cậu ấy đã dẫn đầu nhiều cuộc xung phong, mọi người đều nói về cậu ấy với sự khâm phục. Cậu ấy biết anh đang ở đây và đã cố tìm gặp anh thông qua bộ phận tiền phương của toà soạn, cậu ấy còn viết nhiều thư cho anh nữa nhưng anh ko hề nhận được 1 bức nào trong số đó. Vậy đấy, giờ thì anh đã tìm thấy cậu ta.
... Lyusenka, quá nhiều điều đã diễn ra trước mắt anh, quá nhiều điều nặng nề mà anh tâm hồn, con tim, khối óc của anh phải vượt qua, trí nhớ của anh phải ghi lại và chúng vẫn còn tiếp tục. Anh cảm thấy mình đã ngập đến tận cổ giữa những thứ đó ... Ngày mai anh sẽ thử ngồi viết 1 bài thật dài.
Cùng lúc ông cũng viết 1 bức thư tương tự cho cha, cho biết Yura đã được nhận Huân chương Sao Đỏ và hy sinh trong 1 vụ nổ 1 tháng trước đây.
Chẳng ai khóc cho cậu ấy - cả mẹ và bà ... Con đã đi lang thang suốt mấy ngày vừa rồi, nhìn thấy nhiều điều thú vị, giờ con sẽ ngồi xuống và viết. Con muốn biết 1 cái gì đó dài và nghiêm túc ... Con chưa biết sẽ viết về cái gì, có quá nhiều suy nghĩ và cảm xúc, con chưa biết bắt đầu từ đâu. Khi nào gặp cha con sẽ ngồi trên cái sa lông đỏ mà nói chuyện chán chê mê mỏi.
Sau trận đánh quyết định và ác liệt Stalingrad, Grossman nhận ra 1 điều rất khó chấp nhận rằng số phận có thể thay đổi theo cách hoàn toàn khác, rằng sự chia ly có thể diễn ra rất nhanh chóng và bất thần chỉ trong những khoảnh khắc ngắn ngủi.
1 trung đoàn trưởng rời khỏi trung đoàn của mình. Chẳng có lời chia tay nào: "Điền vào đây," "Đúng, đúng." Rồi đi cuống cuồng. Vậy mà người đàn ông này đã trải qua tất cả những thử thách gay go nhất của trận chiến Stalingrad.
Cuộc chia tay của chính Grossman với mảnh đất này được viết thành bài báo tiêu đề "Hôm nay ở Stalingrad" đăng trên tờ Krasnaya Zvezda.
Mặt trời mùa đông mọc trên những nấm mộ tập thể, trên những hầm mộ do đồng đội tự làm ngay tại nơi những người hy sinh ngã xuống vì cuộc tấn công tổng lực của kẻ thù. Có những xác chết vẫn còn nằm trong đống đổ nát của các nhà máy, dưới những con hào và trong những balka. Giờ họ đang say ngủ ngay tại nơi họ từng chiến đấu khi còn sống. Những ngôi mộ nằm ngay bên chiến hào, boongke, tường đá trổ lỗ châu mai, họ đã ko bao giờ đầu hàng, đó là biểu tượng vĩ đại mà bình thường nhất của lòng trung thành với Tổ quốc, lòng trung thành được tưới bằng máu.
Mảnh đất linh thiêng! Ai cũng muốn giữ lại nơi đây 1 chỗ tưởng niệm để thành phố mới sau này sẽ nhắc nhở mọi người về chiến thắng của tự do. 1 thành phố sẽ mọc lên từ đống đổ nát sẽ mang trong mình nó tất cả ký ức - những căn hầm ngầm, những đường giao liên chằng chịt, những khẩu cối hạng nặng thò nòng lên khỏi những boongke và hầm trú ẩn, hàng trăm người khoác áo jacket và áo choàng trần bông, đội mũ ushanka làm ngày làm đêm ko nghỉ để phục vụ chiến tranh, cắp nách những quả mìn như cắp 1 ổ bánh mì, gọt khoai tây bằng đầu nòng pháo, cãi vã, hát hỏng trong tiếng thì thào, nói chuyện về những trận chiến bằng lựu đạn suốt đêm. Họ đã biểu hiện chủ nghĩa anh hùng thật vĩ đại mà cũng thật đơn giản.
Grossman cảm thấy ngạc nhiên và uất ức khi Ortenberg lệnh cho ông rời Stalingrad chuyển sang Phương diện quân Nam.
Chúng tôi rời Stalingrad vào ngày đầu Năm Mới, chuyển tới Phương diện quân Nam. Thật buồn! Có cảm giác nơi đây đã trở thành 1 phần cuộc đời tôi, trong suốt cuộc chiến này tôi chưa bao giờ có cảm giác đó.
Ortenberg đã quyết định thay Grossman bằng Konstantin Simonov, người sẽ được bao bọc trong vinh quang của chiến thắng cuối cùng. Simonov đã tới thăm Stalingrad cùng Ortenberg trong tháng 9 (nơi họ đã ngủ quên trong boongke của Yeremenko và Khrushchev đặt trên bờ tây và khi tỉnh dậy mới phát hiện ra toàn bộ sở chỉ huy Phương diện quân đã biến mất trong đêm để chuyển sang bờ đông). Grossman là phóng viên tờ Krasnaya Zvezda đã bám trụ trong thành phố lâu nhất, Ilya Ehrenburg là 1 trong những người cho rằng quyết định này là bất công và phi lý. "Tại sao tướng Ortenberg lại lệnh cho Grossman tới Elista và gửi Simonov tới thay? Tại sao ko để Grossman chứng kiến thời điểm kết thúc trận đánh? Đó là điều tôi vẫn ko thể hiểu nổi. Những ngày tháng ở Stalingrad đã in đậm trong tâm trí Grossman thành 1 phần quan trọng nhất, ko thể tách rời."
Grossman viết cho cha ngay trước khi rời Stalingrad.
Vậy đấy, cha ạh, con sẽ nói lời chia tay với Stalingrad vào ngày mai và đi Kotelnikovo, tiếp sau đó là Elista. Con đi mà thấy buồn, cha biết đấy - như thể con phải xa lìa 1 người con yêu quý với rất nhiều kỷ niệm, rất nhiều suy nghĩ và cảm xúc. Những cảm giác thất vọng, có ý nghĩa, kiệt sức, ko thể quên đã hoà quyện với thành phố này, thành phố với con đã trở nên như 1 con người. Cha, tình hình mặt trận đang tốt đẹp lên, và tinh thần con giờ đã tốt hơn.
Phương diện quân Nam phụ trách 1 vùng đất trải rộng qua Kalmykia, từ vùng thảo nguyên trơ trụi phía nam Stalingrad cho tới bắc Caucasus, nơi Thống chế Von Manstein đã phải cùng Cụm Tập đoàn quân A rút chạy toé khói. Cuộc tổng phản công thứ 2 của quân Soviet trong nửa cuối tháng 12, Chiến dịch Sao Thổ Nhỏ, đã đe doạ đường lui của quân Đức qua biển Azov. Cuộc lui binh vội vã này đã cho Grossman thấy được cuộc sống dưới ách chiếm đóng của bọn Đức, đặc biệt là tại Elista, thủ phủ vùng này, cách Astrakhan khoảng 300km về phía tây.
Thảo nguyên Kalmykia. Tuyết và bụi vàng quyện với nhau thành 1 thứ tuyết màu vàng trắng bị gió cuốn tung trên mặt đường. Ko có nhà cửa gì cả, tất cả đều im lặng, ko nơi nào có sự tĩnh lặng tuyệt đối như ở đây. Các con đường đều đã bị đặt mìn. "Các anh đi trước đi," mọi người đùa: "Chúng tôi còn hút thuốc và ăn sáng chút." "Và chúng tôi còn phải đổ thêm ít xăng vào bình!" "Và chúng tôi còn phải đun chút tuyết để đổ đầy bộ tản nhiệt." Thật là 1 con đường lắm mìn kinh khủng. 1 chiếc thiết giáp, 1 chiếc xe tải, lại 1 xe tải nữa, tiếp theo là 1 chiếc xe con, tất cả đều bị phá huỷ vì mìn. Những xác chết bị thổi bay khỏi xe vì sức nổ. Xác những con ngựa với cái bụng vỡ toác nằm sát nhau y như lúc chúng vẫn còn đang kéo xe. Lại 1 chiếc xe tải nữa. Những trái mìn thật đáng sợ.
Im lặng và hoang vắng. 1 con chó đang chạy dọc con đường, miệng cắn 1 khúc xương người. 1 con chó khác chạy theo sau, đuôi quặp giữa 2 chân sau. Các làng mạc - đàn ông đã đi sạch ... Trong 1 căn nhà kiểu Nga, Đoàn viên Komsomol Bulgakova sống cùng đứa con nhỏ. Cô là người duy nhất trong cả vùng này vẫn còn giữ thẻ Đoàn viên giấu dưới đống kizyak. (*)
Có tiếng máy hát, sự ấm cúng và cả sợ hãi nơi đây. Có nhiều kẻ cướp trong vùng. 1 người đàn ông trở về từ trại tù binh chiến tranh. Anh là ai? 1 tên gián điệp hay 1 người đáng tin cậy? Đó là điều bí mật, 1 thứ bóng đen bao quanh anh, anh là 1 ẩn số. Anh nói anh đã đi bộ 4.000km, đã trốn trại 3 lần. Cái chết chưa bao giờ thôi bám riết lấy anh nhưng lại chỉ lượn sát qua khiến anh đau khổ tột cùng: anh đã bị địch bắt gần Smolensk, và thoát khỏi trại tù binh gần Elista. Ko 1 ai tin anh ta, nhưng cũng ko ai có thể ko tin anh ta hẳn. 1 nhân vật bi kịch.
Ko có 1 con gà trống nào trong làng: cánh phụ nữ giết sạch chúng vì nếu ko bọn Romania sẽ phát hiện ra chỗ giấu gia cầm qua tiếng kêu của mấy chú trống choai. Trên thảo nguyên bằng phẳng cuộn lên những đợt sóng của cỏ dại, bụi, tuyết, sương muối, cây ngải đắng (sagebrush) đóng băng như những người cưỡi ngựa trên cánh đồng.
(*) Phân khô ép thành bánh dùng làm nhiên liệu đốt lò.
Elista. Bọn Đức đã đốt sạch Elista, và 1 lần nữa, giống như 15 năm trước đây, Elista lại chỉ còn là 1 ngôi làng, chẳng còn thị trấn nào ở đây nữa ... Sĩ quan chỉ huy tại thị trấn Elista là Thiếu tá Ritter.
Grossman phỏng vấn 1 giáo viên đã tiếp tục dạy học trong thời kỳ Đức chiếm đóng. "Tôi đã bị dằn vặt bởi cảm giác mình đã sai khi làm việc cho chúng," người giáo viên nói.
Lực lượng NKVD của Lavrenty Beria đã đến Kalmykia ngay sau đó để truy tìm những kẻ phản quốc, và họ đã làm việc 1 cách ko thương xót. Grossman đã nhắc đến tên người giáo viên trong bài viết (xem dưới đây) là Klara Frantsevna nhưng chúng tôi ko rõ đây có phải là tên thật của bà hay ko. Những người Kalmyk đã chịu nhiều đau khổ vì chính sách thanh trừng thời chiến của những người Stalinist chống lại những người quốc gia chủ nghĩa miền nam, dù vẫn còn lâu mới tệ hại bằng những gì người Chechen và Crimean Tatar phải chịu nhưng nhiều người Kalmyk đã chào đón quân Đức như những người giải phóng và tự hào khoác lên mình bộ đồng phục xanh lá cây của lực lượng cảnh sát Kalmyk.
Trường học. Môn lịch sử bị lược bỏ khỏi chương trình giảng dạy, địa lý Liên Xô bị thay bằng địa lý tự nhiên Châu Âu như 1 phần trong địa lý thế giới (ko có các quốc gia). Chỉ có vị trí, biên giới, các biển bao quanh Châu Âu, các đảo, bán đảo, điều kiện thời tiết, núi non, đồng bằng.
Môn tiếng Nga: bọn Đức ko cấp cho chúng tôi sách giáo khoa mới mà chỉ sửa sách cũ bằng cách xé bỏ tất cả các trang nhắc đến nền Ctrị Liên Xô. Người Đức yêu cầu bọn trẻ tự xé bỏ tất cả các trang đó trong sách của chúng, nói chuyện với lũ trẻ là 1 sĩ quan Đức từng học tập tại Odessa và vốn là thầy dạy hoá ở cấp trung học.
Môn tập đọc: Sách tập đọc bị cấm (vì "Gorky ko phải là 1 nhà văn mà là 1 tên bịp bợm"). (*) Chúng giới thiệu 1 cuốn sách có tựa đề "Điều gì sẽ xảy ra?" và cuốn tạp chí "Hitler - người giải phóng" đăng bài viết "Trong hang ổ của các Ctrị viên" của Albrecht. (**)
Toán: chúng bỏ hết khỏi sách giáo khoa những đoạn nói tới thành tựu của chế độ Soviet, thay vào đó là nhưng câu hỏi đại loại như: Vậy số lượng máy bay Soviet bị bắn hạ là bao nhiêu?
Môn tiếng Đức được đưa vào chương trình. 1 sĩ quan kiểm tra cặp học sinh xem còn trang nào chúng chưa xé hay ko. 1 cuốn sách do Lenin viết được tìm thấy trong cặp của 1 bé gái, cô bé bị quát mắng thậm tệ, nhưng ko bị đuổi học.
Môn khoa học tự nhiên: chương cuối "Nguồn gốc loài người" bị cấm chỉ.
Bọn trẻ phải học 2h mỗi tuần với giáo viên người Đức. Việc trừng phạt học sinh được tả như sau: "Có khi bạn thậm chí phải đánh lũ trẻ."
Học hát: các bài dân ca Nga, bài "Táo chín", bài "Các con, hãy sẵn sàng đến trường."
Ngôi trường này ko phải là điển hình ở những vùng tạm chiếm - bọn Đức còn bận bịu thực thi quyền lực của chúng. "1 tên Đức đã hỏi tôi: "Bọn trẻ đã đọc cuốn "Chiến tranh và Hoà Bình" chưa?" (***) Tôi trả lời: "Chúng còn quá bé để đọc cuốn đó.""
Thư viện. Tất cả sách Ctrị đều bị bỏ kể cả sách của Heine, sách của tất cả các nhà văn Soviet cũng vậy.
Metise (người gốc Đức) được nhận khẩu phần ăn như người Đức. Có 1 cáo thị như sau: "Tất cả người Metise phải được đưa vào các cơ quan quản lý, đó là đặc quyền của họ." Người Metise được cấp những con bò thuần chủng giá hàng ngàn rúp, sô cô la, bột mì, bánh kẹo. 1 số người Nga cũng được coi như người Metise.
(*) Gorky chính là người đã giúp đỡ Grossman khởi đầu sự nghiệp viết văn.
(**) Đây là 1 bài viết dài do Đảng viên phản bội Karl Albrecht viết trong cuốn "Der verratene Sozialismus" xuất bản năm 1941 dưới thời Đức Quốc xã.
(***) Có lẽ bọn Đức muốn biết Tolstoy có bị Nhà nước Soviet xem là 1 nhà văn phong kiến ko.
1 tên lính Đức vào nhà tôi tìm đường, hắn lấy 1 viên đường mút mút. Tôi chỉ vào đứa con nhỏ, hắn cười và bỏ đi. Chúng thích những thứ ngọt ngào, lúc nào chúng cũng ngậm đường." (*)
Dòng chữ trước cửa WC: "Lối vào, cấm người Nga."
Bọn Đức ở Elista. Hồi tháng 8, chúng mặc quần đùi mà đi lại hay phóng xe máy ngoài đường. (**)
Grossman cũng được nghe về những hành động tàn bạo chống lại người Do Thái, có lẽ chúng được thực hiện bởi lực lượng yểu mệnh SS Sonderkommando, thành lập tháng 10/1942 và bị giải thể vào tháng 12, ngay sau khi mặt trận vỡ. Mặc dù có tên như vậy nhưng lực lượng Sonderkommando có trụ sở chính tại Elista này.
93 gia đình người Do Thái đã bị giết. Bọn Đức đã bôi thuốc độc lên môi những đứa bé.
Khó mà biết được chính xác Grossman có ý gì khi viết về cái chết của những đứa trẻ, đây là 1 điều cấm kỵ với người Nga. Việc nhắc đến nó xem ra liên quan đến việc bọn SS đang thử nghiệm 1 loại chất độc mới.
Grossman cũng phỏng vấn 1 cô giáo từng bị 1 sĩ quan Đức hiếp.
Phỏng vấn 1 nữ giáo viên (tôi quyết định ko hỏi tên cô). 1 đêm, 1 tên sĩ quan được hỗ trợ bởi nhiệm vụ mà hắn đang thi hành đã hiếp cô. Cô đang bế đứa con 6 tháng tuổi thì hắn bắn vào cánh cửa và doạ giết đứa bé. Kẻ đang thừa hành nhiệm vụ khoá cửa lại. Vài tù binh quân ta đang bị nhốt ở phòng bên, cô đã cố kêu cứu nhưng chỉ có sự im lặng chết chóc đáp lại.
Sử dụng những ghi chép từ các cuộc phỏng vấn ở Elista, Grossman cố dựng lại những gì đã diễn ra tại các vùng Đức chiếm đóng. Thật khó tưởng tượng là Grossman có thể phổ biến chúng nếu xét đến việc các chủ đề liên quan tới sự cộng tác với địch là chuyện cấm kỵ.
1 ông giáo già ... Ngày 5/6/1942, ông đang ngồi trong sân thì lũ chó, chúng đã có kinh nghiệm sau nhiều cuộc ko kích, lao xuống hào theo sau những người phụ nữ, đuôi kẹp giữa 2 chân sau. Đám phụ nữ đá chúng và hét: "Ko có chúng mày bọn tao đã mệt lắm rồi! Chúng mày nghĩ bọn tao muốn chúng mày ở đây cùng lũ bọ chó của chúng mày sao? Cút ra, quân mắc dịch!" Nhưng lũ chó vòng sang bên cạnh họ mà ko chịu nhảy ra khỏi hào.
Voronenko kể bọn Đức đã thả 1 trái bom 200kg, và những khẩu pháo phòng ko đã bắn trượt mục tiêu ở khoảng cách khoảng 500m. Bà già Mikhailyuk tuyên bố dứt khoát: "Chỉ hy vọng bọn Đức đến sớm thì mới chấm dứt được cơn ác mộng này. Cả ngày hôm qua còi báo động cứ kêu riết làm tôi bị hỏng cả nồi xúp củ cải đỏ trên bếp lò."
Đám trẻ em trai ló ra đầu tiên, chúng chạy tới mang theo những thông tin chính xác: "1 quả bom rơi ngay đối diện nhà Rabinovichka, con dê nhà Zabolotsy chết, cụ Miroshenko bị cụt chân, họ đã mang bà ấy đến bệnh viện bằng xe ngựa nhưng bà đã chết trên đường đi, con gái bà ấy khóc mẹ to đến mức người ta có thể nghe thấy tiếng cô ta từ cách xa 4 khối nhà."
"Có 1 điều tôi sợ nhất," ông giáo nói, "đó là những người mà tôi đã sống bên họ cả đời, yêu quý họ, tin tưởng họ, vậy mà họ lại bán mình cho bọn xấu xa, hèn hạ."
Chỉ 1 lần vào buổi trưa có bọn lính mô tô Đức xuất hiện, chúng đội mũ vải, mặc quần soóc và đi giầy thể thao, da chúng sạm đen, vài tên tay đeo đồng hồ. 1 bà gà nhìn chúng và nói: "Ah, lạy Chúa, chúng thật ko biết xấu hổ, cởi truồng giữa đường. Quân vô đạo!"
Đám mô tô luồn quanh những ngôi nhà, bắt đi con gà tây của cha xứ lúc đó đang bới 1 đống phân ngựa, xơi sạch 2 cân rưỡi kẹo ở nhà trưởng làng, uống hết 1 xô sữa rồi bỏ đi, hứa rằng 1 viên sĩ quan chỉ huy sẽ tới đây sau khoảng 2h nữa.
Trong suốt những ngày đó, 2 người bạn của Yashka, những kẻ đào ngũ, tới thăm anh ta. Tất cả cùng uống và hát: "3 người lính tăng, 3 người bạn vui nhộn." Có lẽ họ đã hát 1 bài hát Đức nếu biết. 1 nhà nông học đi lại quanh sân, ngoác miệng cười và hỏi han cánh phụ nữ: "Thế đám Do Thái ở đâu? Cả ngày nay tôi chả thấy ai kể cả trẻ con và người già, như thể họ chưa bao giờ tồn tại vậy. Vậy mà hôm qua họ còn mang 5 pút giỏ đan ra chợ bán."
Ngày qua ngày, tay "nhà nông học" phân chia trách nhiệm cho mọi người. Yashka làm cảnh sát, cô gái đẹp nhất thị trấn chơi piano tại quán café dành cho sĩ quan và sống cùng tay sĩ quan được phân công chỉ huy thị trấn. Phụ nữ đi các làng trao đổi đồ đạc để lấy lúa mì, khoai tây và hạt kê, họ nguyền rủa đám lái xe Đức đã bắt họ trả mức phí vận chuyển khủng khiếp. Phòng lao động gửi đi hàng trăm giấy gọi, và lũ trẻ trai gái phải khoác balô ra ga lên các toa tàu hàng. 1 rạp chiếu phim Đức, 1 nhà thổ dành cho sĩ quan và 1 nhà thổ dành cho lính được lập trong thị trấn. 1 WC lớn bằng gạch được xây ngay giữa quảng trường trung tâm thị trấn, ghi dòng chữ "Chỉ dành cho người Đức" bằng tiếng Nga và tiếng Ý. Ở trường, cô giáo Klara Frantsevna ra bài tập cho các học sinh lớp vỡ lòng: "2 chiếc Messerschmitt bắn rơi 8 chiếc tiêm kích của bọn Đỏ và 12 máy bay ném bom. 1 khẩu pháo phòng ko cũng bắn rơi 11 máy bay cường kích mặt đất Bolshevik. Hỏi tổng cộng số máy bay của bọn Đỏ bị bắn hạ là bao nhiêu?" Tù binh bị giải qua thị trấn, họ đều rách rưới và đi siêu vẹo vì đói. Những người phụ nữ chạy theo họ, đưa họ chút bánh mì hay khoai tây luộc. Các tù binh đánh nhau để giành thức ăn và bọn lính canh đánh họ để thiết lập lại trật tự.
Yashka nói với vẻ bí mật nhạo báng: "Bạn sẽ sớm có nhiều chỗ để sống, tôi đã thấy các thị trấn bị quét sạch hoàn toàn ... cuối cùng chỉ còn 1 nhóm nhỏ dân bám trụ lại."
Bà cụ Weisman bật khóc với đứa cháu gái: "Dasha," bà nói, "Bà sẽ đưa cái nhẫn cưới này cho cháu, cháu có thể thu được độ 15 pút khoai tây từ vườn nhà cùng 1 ít bí ngô và củ cải đường. Nhờ đó cháu có thể nuôi được đám phụ nữ chúng ta cho tới mùa xuân. Bà cũng còn 1 bọc áo khoác phụ nữ, cháu có thể đổi nó lấy bánh mì." Bà cụ ăn rất ít, bà nói bà ko muốn ăn.
Ngày 17/2, Grossman viết thư cho vợ kể về niềm khao khát trở lại trung tâm các sự kiện sau thời gian phí phạm ở Kalmykia.
Anh đang rất nóng lòng đợi chuyến bay ... Những sự kiện vĩ đại đang diễn ra, anh đã mất vụ Kharkov, anh vẫn còn ở đây trong khi các cuộc tấn công đang diễn ra ... Các bài viết của anh về Stalingrad đã thu được thành công lớn.
Grossman vẫn ko ý thức được rằng cái nhìn quá lạc quan về cuộc tiến công tiếp theo Chiến dịch Sao Thổ Nhỏ là 1 sự lặp lại sai lầm của Stalin trong tháng 1 năm ngoái, sau khi thành công ở quanh Moscow quân Soviet đã vội vàng chuyển sang tổng phản công. Ở phía nam, Hồng quân đang phải đối mặt với tài năng ngoại hạng của Thống chế Von Manstein, người đang chuẩn bị cho 1 cuộc phản công tái chiếm Kharkov. Tuy vậy Grossman cũng có những nỗi thất vọng riêng như ông đã giải thích trong bức thư gửi vợ.
Anh đang rất khó chịu và cảm thấy bị xúc phạm về vụ giải thưởng. Dù sao nó cũng ko làm giảm sự tôn trọng đối với anh của giới văn học và đông đảo độc giả. Thôi chẳng xới lại vụ đó nữa, giờ tất cả đã qua.
Những người được giao trách nhiệm bình chọn người thắng Giải thưởng Stalin năm 1942 đã nhất trí bầu tác phẩm "Nhân dân bất diệt", nhưng Stalin đã gạch bỏ tên Grossman. Có lẽ vấn đề nằm ở chủ đề tác phẩm liên quan đến thảm hoạ năm 1941, 1 chủ đề ko mấy dễ chịu với Người Cầm lái Vĩ đại, người đã phạm những sai lầm thảm khốc trong giai đoạn này. Người thắng giải sau khi có sự can thiệp của Stalin là Ilya Ehrenburg với tác phẩm "Paris thất thủ". Tháng 12/1944, trong cuộc viếng thăm Moscow của De Gaulle, Stalin đã tinh quái yêu cầu Ehrenburg tặng người đứng đầu nước Pháp 1 bản.
Bản thân Egrenburg cũng có vẻ ko dễ chịu gì với vận may của mình và vận rủi của Grossman trong mùa đông năm đó ở Stalingrad. "Mọi người nói rằng có 1 số kẻ sinh ra dưới 1 ngôi sao may mắn," ông viết. "Nhưng ngôi sao mà Grossman sinh ra dưới đó thì dứt khoát là 1 ngôi sao xấu. Tôi phải nói rằng chính Stalin đã gạch tên cuốn sách của anh ấy, cuốn "Nhân dân bất diệt", ra khỏi danh sách đề cử giải thưởng."
Grossman đã có được sự quý mến cao độ của những người quản lý về mặt Ctrị đời sống văn học Soviet. Ortenberg viết như sau vào mùa hè năm 1942: "Chúng tôi nhận được 1 bức thư từ Vasily Grossman, cậu ta yêu cầu tôi "cung cấp chỗ trú chân" cho bạn cậu ta là Andrey Platonov. (***) "Anh ấy ko có ai bảo vệ và chưa có chỗ ổn định." Đó là 1 nhiệm vụ khó khăn. Platonov lúc đó là 1 "persona non grata" (người ko được chấp nhận) trong văn giới." Nhưng Grossman vẫn làm theo cách của cậu ta, và Platonov đã được nhận vào làm cho tờ Krasnaya Zvezda.
(*) Những đội quy tập hài cốt có lẽ cũng sớm biết cách phân biệt 1 cái sọ Đức với 1 cái sọ Soviet chỉ đơn giản bằng cách xem răng. Những hộp sọ lính Soviet đều mang những chiếc răng chắc khoẻ và ko có vết hàn.
(**) Lính mô tô Đức cũng thường mặc quần soóc, 1 kiểu trang phục ít thấy ở những vùng hẻo lánh.
(***) Andrey Platonovich Platonov (1899 - 1951, nhà văn, nhà thơ và nhà phê bình văn học, là phóng viên đặc biệt của tờ Krasnaya Zvezda từ tháng 10/1942 đến hết chiến tranh.
MƯỜI CHÍN
CHIẾN THẮNG QUAY LẠI VỚI QUÂN TA
Niềm tin sai lầm của Stalin rằng quân Đức đang sụp đổ ở khắp nơi sau trận Stalingrad đã dẫn tới việc mở rộng quá mức các cuộc tiến công của Hồng quân, nhưng niềm tin đó đã bị đảo lộn nhanh chóng. Thống chế Von Manstein đã tính toán ko chê vào đâu được, hắn tổ chức phản công đúng lúc các mũi thiết giáp Soviet kiệt sức và cạn nhiên liệu. Quân đoàn Xe tăng 25 Soviet đã phải bỏ lại toàn bộ phương tiện gần Zaporozhe để rút chạy bằng chân qua vùng tuyết phủ.
Tuy nhiên, kế hoạch của Manstein đã gặp phải 1 thất bại quan trọng vào đầu tháng 3 khi tướng Paul Hauser đã chống lệnh hắn để ném các quân đoàn thiết giáp SS vào trận đánh sau này được biết đến với tên gọi Trận Kharkov lần thứ 3, 1 trận đánh vội vàng và tai hại nhằm tái chiếm thành phố này. Nửa sau tháng 3, sau khi Manstein xoay chuyển hướng chiến dịch nhằm ngăn ngừa thảm hoạ, lờ đi hầu hết các mệnh lệnh của Hitler, 2 bên đều quay về tình trạng phòng ngự các vùng đất đã thu được và tái tổ chức lực lượng. Có lẽ kết quả quan trọng nhất của những cuộc tấn công qua lại liên tục này là tạo ra mấu lồi lớn Kursk, 1 vòng cung khổng lồ rộng hơn 80 mile vuông đất Soviet đâm vào chiến tuyến Đức. Nó trở thành nỗi ám ảnh của Hitler trong nhiều tháng tiếp theo và kết quả là dẫn tới thất bại định mệnh cho lực lượng thiết giáp của hắn.
Grossman được trở về với mảnh đất quen thuộc của mình, vùng Starobelsk ở đông Ukraina, ngay phía bắc sông Donet. Ortenberg ghi chép lại việc Grossman đã thích nghi với đời sống quân đội như thế nào. "Chiến tranh diễn ra tháng này qua tháng khác, và Grossman, 1 người dân hết sức bình thường, chưa bao giờ phải lo về chuyện sẽ bị gọi nhập ngũ vì tình trạng sức khoẻ, đã biến chiến trận thành ngôi nhà của mình. Vẻ bề ngoài của cậu ta ko thay đổi mấy ngoại trừ việc cậu ta mặc quân phục thường xuyên hơn và chiếc áo khoác co lại 1 chút vì mưa và tuyết. Giọng cậu ta cũng ko có vẻ trầm bổng đặc trưng của các vị chỉ huy dù đã mang quân hàm trung tá."
Grossman được giao theo sát Tập đoàn quân Cận vệ 3 ở bắc Donbass, ông đã nhận rõ tình hình quân sự diễn ra giống y như năm ngoái. Trong cuốn sổ ghi chép, ông viết: "Đầu mùa xuân, mặt trận hoàn toàn yên tĩnh."
Ở Starobelsk, ông đã đối mặt với những thông tin lạ lùng dội lại từ quá khứ trước cách mạng.
Tôi cho 1 cha xứ đi nhờ xe tải cùng con gái và cháu gái ông, với toàn bộ tư trang của họ nữa. Họ đã chào đón tôi tại nhà của họ như thể tôi là 1 hoàng thân với bữa tối có vodka. Cha xứ nói với tôi rằng binh lính và sĩ quan Hồng quân đều từng đến gặp ông để cầu nguyện và nói chuyện. 1 đại uý vừa mới tới thăm ông cách đây ko lâu.
Câu chuyện về Kseniya, em gái Sa hoàng sống ở Starobelsk. Bà đã bảo vệ những người dân Soviet trước bọn Đức. Mọi người nói bà đã từ hải ngoại trở về được 1 thời gian theo sự cho phép của Dzerzhinsky để tìm đứa con trai. (*)
Đó thực sự là 1 huyền thoại hư cấu. Nữ Đại Công tước này đã rời Crưm năm 1919 cùng Công chúa kế vị và các thành viên gia đình hoàng tộc trên boong chiến hạm HMS Marlborough và chưa từng trở lại nước Nga. Trong WW2 bà sống tại Balmoral chứ ko phải là Starobelsk.
Định đi câu cá nhưng 1 chiếc Messer bất thần tấn công và bắn vào chúng tôi.
Chính phủ Ukraina đã được tái lập trên 1 mảnh đất Ukraina nhỏ vừa được giải phóng, thị trấn nhỏ Starobelsk, trong 1 chăn nhà cũng nhỏ tí màu trắng. Nói chuyện với Bazhan (**), ông ta phàn nàn về sức ỳ ghê gớm của chủ nghĩa sô vanh trong chúng tôi. 1 lính canh đứng trước cửa có khuôn mặt đáng sợ đến mức có thể khiến người ta lùi bước ngay lập tức nếu là trong thời bình.
1 phóng viên chiến tranh, nhà văn Levada người Ukraina, đã tỏ ra hết sức khó chịu vì nhận được 1 huy chương thay vì 1 huân chương (***). Sau khi nhận được nó, cậu ta trở về izba của mình. Đứa con gái nhỏ kêu lên khi nhìn thấy tấm huy chương: "1 đồng kopeck!" Thằng con trai sửa lại: "Đó ko phải là 1 kopeck, đồ ngu, đó là 1 cái dây đeo cổ." Đối với Levada, huy chương là thứ vô dụng nhất trên đời.
Starobelsk từng bị phần còn lại của Tập đoàn quân 8 Italy đóng giữ. Tập đoàn quân này đã bị đánh te tua trong Chiến dịch Sao Thổ Nhỏ vào cuối tháng 12.
Mọi người nhất là phụ nữ có thể nói chuyện dễ dàng với bọn Ý. "Chúng hát, chúng chơi đùa, chúng hót "O mia donna!" với các bà các cô." Nhưng ai nấy đều ko thể chấp nhận chuyện chúng ăn thịt cả ếch nhái.
Khổ sở làm sao, đáng lo làm sao khi mặt trận tạm yên! Đã có bụi đóng trên mặt đường.
(*) Feliks Dzherzhinsky (1877 - 1926), con trai 1 địa chủ Ba Lan, tháng 12/1917 trở thành Dân uỷ Nội vụ và lãnh đạo Cheka, Uỷ ban Đặc biệt toàn Nga về chống phản cách mạng và phá hoại, sau trở thành GPU (Gosudarstvennoye Politicheskoye Upravlenie - Государственное Политическое Управление - Đặc vụ) vào năm 1922.
(**) Mykola Platonovich Bazhan (1904 - 1983), nhà thơ, nhà phê bình và sau này là thành viên Viện Hàn lâm khoa học Ukraina. Sau WW2 ông từng bị nhà cầm quyền Soviet gây sức ép để buộc ông rút khỏi danh sách đề cử giải Nobel.
(***) Aleksandr Stepanovich Levada (1909 - ?), nhà văn và nhà thơ Ukraina.
Mùa bùn lầy (rasputitsa - diễn ra 2 lần 1 năm ở Nga và Ukraina) đã qua, đã thấy có bụi, điều đó có nghĩa là mặt đất đã đủ chắc cho mọi loại xe, nhưng vẫn chưa có gì xảy ra.
Grossman phỏng vấn tướng Belov.(*)
Khu vực trách nhiệm của 1 sư đoàn Đức có chiều sâu 8km. Vì vậy nếu chúng tôi thọc sâu được 8km vào chiều sâu phòng ngự địch, chúng tôi sẽ làm náo loạn 30km chiều sâu mặt trận. Nếu chúng tôi thọc sâu được 30km, chúng tôi sẽ gây chấn động 100km. Nếu chúng tôi thọc sâu được 100km, hệ thống chỉ huy trên toàn mặt trận sẽ rối loạn.
"Chúng tôi mắc phải 1 sai lầm ở sông Đông: Tôi đã nói rằng quân ta đã mệt, tôi mất 2h để cho họ nghỉ, và Luftwaffe đã có cơ hội tấn công còn quân Đức dưới đất thì có thời gian tập trung lực lượng dự bị. Nếu ko có quãng thời gian nghỉ đó quân ta đã có thể chọc thủng chiến tuyến Đức, đáng lẽ ra nên đánh bài liều. Nhưng nếu cứ chất chứa những sai lầm đó lên vai mình thì bạn sẽ bị đè bẹp mất.
"Có những viên chỉ huy khoác lác thế này: "Tôi đang phải đối mặt với hoả lực địch, tôi đã lùi lại và đang cho trinh sát." Thật hết nói! Anh có thể đối mặt với cái gì khác nữa chứ? Đương nhiên là địch sẽ sử dụng hoả lực rồi, ko nhẽ chúng nhặt táo ném anh, hay thứ gì đó tương tự? Anh phải thọc sâu hơn nữa và làm câm họng hoả lực địch, càng thọc sâu thì quân địch sẽ càng yếu và rối loạn hơn ... Trong trận đánh này cũng như trong cả chiến dịch chưa có lúc nào tôi dám nghĩ mọi thứ đã qua, dù là khi đang xung phong ào ạt, ném mọi lực lượng dự bị vào trận chiến, hoặc ngược lại khi dừng lại. Các chỉ huy của tôi thường chỉ thích ra lệnh: "Tiến lên, tiến lên!"
"Có lúc buộc phải tạm ngừng các hoạt động, sau khoảng 5 ngày, khi bạn đã hết sạch đạn, các đơn vị hậu tuyến còn ở tít sau, các binh sĩ đã quá mệt mỏi và ko thể thực hiện nhiệm vụ được nữa. Họ ngã lăn ra tuyết và ngủ ngay lập tức. Tôi đã từng thấy 1 lính pháo binh buồn ngủ tới mức ra khỏi hoả điểm đúng 2 bước là lăn ra ngủ, tôi đã dẫm lên người mà anh ta cũng ko tỉnh dậy. Họ cần nghỉ, 24h, hay 8h thôi cũng tốt rồi. Để đại đội trinh sát tiến lên thôi.
"Có 1 đại đội mà lính tráng đã buồn ngủ tới mức bọn Đức chọc lưỡi lê vào người cũng ko buồn dậy. Đại đội trưởng vẫn còn thức và đã đánh đuổi được bọn Đức với khẩu tiểu liên của anh ta. Đó là lý do khi sự việc đã qua ko ai dám bắt những người lính phải cố gắng gì thêm, sẽ chẳng có điều gì tốt đẹp nếu làm vậy.
"Ai cũng phải xác định rõ ràng, nghiêm túc việc cần làm với kẻ địch: đánh bại chúng, hoặc chí ít là đẩy lùi chúng. Đừng có nói bạn đã đánh bại quân thù, chúng mới chỉ lùi bước 1 chút và sẽ nện giữa mặt bạn ngay sau đó thôi.
"Tôi có thể thấy rằng quân địch còn mạnh, các đơn vị hậu tuyến đã tụt lại sau thế mà bộ chỉ huy tiền phương vẫn nói với tôi: "Tiến lên! Tiến lên!" Thật là 1 sai lầm nghiêm trọng. Điều đó đã từng xảy ra với Popov." (**)
(*) Có ít nhất 11 viên tướng tên là Belov trong Hồng quân thời WW2, vì thế thật khó biết người được phỏng vấn chính xác là ai, nhưng có lẽ Grossman đang nhắc tới tướng (sau này lên tới chức Đại tướng) P. A. Belov vừa trở thành chỉ huy Tập đoàn quân 61.
(**) "Binh đoàn cơ động mũi nhọn" của tướng M. M. Popov đã được lệnh của tướng Vatutin tiếp tục tiến công về hướng Stalino và Mariupol dù đã mất hầu hết số xe tăng và thiếu nhiên liệu. Trong khi đó Quân đoàn 25 Xe tăng, cũng đang cạn nhiên liệu, vẫn còn cách Zaporozhe 50 mile vào ngày 19/2, ngay sau khi Hitler rời sở chỉ huy của Manstein đặt tại đó. Chính trong cuộc gặp này những điểm chính của kế hoạch Citadel, chiến dịch tấn công vòng cung Kursk, đã hình thành.
[pic]
"Chúng tôi ko thực sự biết rõ về đối phương, và thỉnh thoảng trinh sát còn đưa ra nhận định sai lạc. (*) Địch đang ở đâu, làm gì, bố trí lực lượng dự bị thế nào, định đi tới đâu. Chúng tôi phải chiến đấu như người mù vì chẳng có chút thông tin nào.
"Rắc rối chính với các chỉ huy cao cấp là họ thường nghĩ đối phương yếu hơn thực tế, trong khi đó thì tôi, chính tôi biết rõ sức mạnh thực sự của chúng. Có lần quân của tôi đang phải đối mặt với 15 khẩu súng máy nhưng bị người ta quát: "Tiến lên!" Tôi biết có 15 khẩu súng máy ở đó và vì vậy tôi buộc phải dừng lệnh đó. Nhưng cũng có trường hợp 1 chỉ huy hét: "Tôi đang phải chống lại tới 30 chiếc tăng," trong khi thực ra có mỗi 1 chiếc. Đó là lý do tôi luôn phải nghi ngờ.
"Có những chỉ huy trẻ chưa từng biết điều gì khác ngoài tấn công, (**) vì thế khi họ phải thiết lập các vị trí phòng ngự, họ ko biết là phải đào hào như thế nào hay thậm chí là tại sao phải đào hào hay thiết lập các hoả điểm, v.v... Chúng tôi cũng gặp phải 1 kiểu chỉ huy khác - những người lúc nào cũng chỉ nhăm nhăm phòng thủ và rất sợ tiến lên.
"1 điều tồi tệ trong các trận đánh phòng ngự là người ta mất dần niềm tin vào sức mạnh của bản thân và trở nên nản lòng. Khi phòng thủ, niềm tin vào thắng lợi sẽ giảm đi cũng như niềm tin vào sức mạnh của mình. Trong phòng thủ, binh sĩ cần được tăng cường sức mạnh tinh thần, trong khi đó lúc tiến công cần nhiều sức mạnh thể chất hơn còn tinh thần tự nó cao rồi ...
"Việc đầu tiên là đào hào, quân ta đã quen với việc bị xe tăng Đức tấn công. Anh biết đấy, khi ngồi trong hào nếu có lúc nào đó tôi cảm thấy muốn bỏ chạy thì cũng ko có chỗ nào để chạy đi cả. Mỗi đoạn hào có 3 hoặc 4 người cùng canh, những người nghỉ ngơi thì ở trong zemlyanka, tiếng lóng là "lều cỏ của Lenin". (***) Nếu quân địch tới quấy rối, tôi sẽ báo động và mọi người sẽ nhảy ra."
Sự cần thiết phải chống lại cảm giác sợ xe tăng là vấn đề sống còn tại Mặt trận Phía đông. Người Đức thậm chí còn đặt tên riêng cho hiện tượng tâm lý này là Panzerschreck. Trước khi những người lính Sibêri vượt sông Volga để bảo vệ các khu công nghiệp tại Stalingrad, tướng Gurtyev đã bắt họ tập đào hào trên bờ tây và ngồi dưới đó, sau đó lệnh cho xe tăng chạy qua. Xe tăng chạy qua hào được gọi là "là ủi". Bài học sống còn ở đây là phải đào cho sâu, như thế hào sẽ ko bị sập đổ, và những người lính qua đó giữ được tinh thần. Có rất nhiều câu chuyện liên quan tới việc này.
1 chiếc xe tăng địch ủi qua đoạn hào của xạ thủ súng máy Turiev nhưng anh ta lập tức bắn tiếp vào những kẽ hở của chiếc tăng và sau đó là vào bọn bộ binh tùng thiết, buộc chúng phải nằm dán xuống đất. Khi bọn lính lái tăng phát hiện ra điều đó chúng đã lái chiếc tăng quay lại, trườn qua hào của Turiev lần nữa. Người lính dũng cảm ôm khẩu súng máy bò theo đằng sau chiếc tăng, đặt súng bên 1 đống cỏ khô và lại tiếp tục bắn hạ bọn Đức như phát cỏ. Người anh hùng Turiev đã chiến đấu như thế cho đến chết, bị chiếc xe tăng nghiền nát.
Grossman cũng đã nói chuyện với 1 chỉ huy cấp dưới của Belov tên là Martinyuk
1 lần tôi tí nữa bắn Zorkin khi trung đoàn của anh ta bắt đầu bỏ chạy và anh ta mất kiểm soát, mất cả tư duy và ko có biện pháp gì để xử lý tình huống đang diễn ra cả. Zorkin bị thiên chuyển vào tháng 12. Giờ người ta gọi anh ta là "giáo sư", anh ta chỉ toàn ngồi bên bản đồ suy nghĩ trong khi xe tăng Đức đang xông tới. Hiện sau trận tấn công phần lớn các chỉ huy từ cấp trung trở xuống đều là lính trơn và hạ sĩ quan đôn lên.
"Các chỉ huy trưởng giờ có thể gạt sang 1 bên các nhiệm vụ Ctrị, đã có chỉ huy phó (tức chính uỷ) chăm lo toàn bộ việc đó."
(*) Hồng quân sử dụng thuật ngữ "reconnaissance" (trinh sát) gộp chung cho trinh sát và tình báo, 2 bộ phận tách rời trong quân đội các nước phương Tây.
(**) Ý Belov nói tới những người xuất hiện kể từ ngày 19/11/1942 trở đi, khi Chiến dịch Sao Thổ đã giúp Hồng quân giành lại ưu thế trước quân Đức.
(***) Zemlyanka có nghĩa là hầm đào xuống đất, thường được gia cố bằng những thanh xà gỗ và đắp đất phía trên. Nó cũng đồng thời là tên 1 trong những bài hát được ưa thích nhất thời chiến, bài hát kể về 1 người lính ngồi trong zemlyanka phủ ngập tuyết nhớ về người yêu.
Đây là 1 cách nói khác về các vấn đề được nêu trong Mệnh lệnh số 307 của Stalin ban hành ngày 9/10/1942, Mệnh lệnh này tái lập chế độ 1 thủ trưởng và giảm quyền lực của các Ctrị viên xuống vai trò cố vấn và “giáo dục tư tưởng”. Cánh Ctrị viên đã rúng động khi nhận ra trong nhiều trường hợp vô số sĩ quan Hồng quân đã tỏ ra ghê tởm và khinh bỉ họ. Ví dụ Cục Ctrị Phương diện quân Stalingrad đã phải chua chát phàn nàn với Aleksandr Shcherbakov, người đứng đầu GLAVPURRKA, Tổng Cục Ctrị của Hồng quân, về tình trạng “thái độ hoàn toàn sai lầm” đang trở nên phổ biến.
“Đang có sự thiếu quan tâm săn sóc đối với các binh sĩ Hồng quân; mặt khác, các chỉ huy của chúng ta ko bị buộc phải làm việc đó 1 cách thích đáng. Điều này phát sinh từ việc thiếu văn hóa. Tại sao các binh sĩ Hồng quân yêu mến trung úy Kuznetsov? Vì anh ta chăm lo cho họ; anh ta sống cùng với họ. Họ đến với anh cùng những bức thư nhà cả xấu lẫn tốt, anh khích lệ mọi người, anh viết về những người lính của mình rồi gửi đăng báo. Anh chưa bao giờ trừng phạt binh lính 1 cách cẩu thả, ko bao giờ bỏ sót 1 dấu hiệu của sự lơ đễnh dù là nhỏ nhặt nhất: 1 chiếc cúc đứt, 1 người ho khi đi trinh sát. Quan tâm cũng có nghĩa là kiểm tra: đồng chí đã có đủ các băng đạn chưa, đã có xà cạp khô chưa? Đó là những thiếu sót thường xảy ra có thể dẫn tới giảm hiệu quả công việc thậm chí là mất người và ko hoàn thành nhiệm vụ.
“Những binh lính được thăng lên sĩ quan hoàn thành nhiệm vụ rất tốt và rất ân cần với thuộc cấp của mình. Họ quan tâm đến cuộc sống binh sĩ từng ngày, các sĩ quan trưởng thành từ lính chiến bao giờ cũng là điển hình về sự chính trực. Tại các đơn vị hậu tuyến, các hạ sĩ quan, sĩ quan liên lạc của các trung đoàn trưởng, sĩ quan hậu cần cấp trung và tiểu đoàn – đó là những người dễ bị thoái hóa về mặt đạo đức nhất.
“Kiểu ra lệnh – “Nếu các anh ko tiến lên ngay, ĐM, tôi bắn” – phát sinh từ sự thiếu ý chí. Cách ra lệnh này chẳng thuyết phục được ai, nó chỉ thể hiện sự yếu đuối. Chúng ta đang cố gắng giảm thiểu lối ra lệnh này và nó đang ngày 1 ít đi. Tuy nhiên nó rất rất dễ dàng tăng trở lại.
“Vấn đề dân tộc là rất tốt. Trong 1 số trường hợp đơn lẻ có biểu hiện thiếu tốt đẹp trong quan hệ giữa các dân tộc nhưng đó chỉ là cá biệt.”
Đây là 1 cái nhìn quá lạc quan về các vấn đề dân tộc, nói theo cách nhẹ nhàng nhất. Đôi khi việc tỏ thái độ khinh thường các dân tộc thiểu số đã xuất hiện trong Hồng quân, đặc biệt là với những người lính gốc Trung Á, khiến cho khái niệm "tình anh em Soviet" nghe có vẻ rất sai lầm. Mặc dù ko có số liệu nào có thể chứng minh nhưng tỷ lệ đào ngũ và tự gây thương tích trong lính Trung Á là cao hơn mức chung rất nhiều. Giải pháp duy nhất của các Ctrị viên là: "Tuyên truyền giáo dục cho các binh lính và sĩ quan ngoài dân tộc Nga về mục tiêu cao cả nhất của mọi người dân Liên Xô, giảng giải cho họ về lời thề quân đội và quy định trừng phạt bất kỳ hành vi phản bội Tổ quốc nào."
"Có rất nhiều người đến với chúng tôi từ các vùng tạm chiếm; họ tin vào sức mạnh của Hồng quân và Hồng quân đã dùng họ làm nhân chứng hoặc đưa vào những trung đoàn đồn trú."
Mỗi khi quân Đức rút lui, nhiều kẻ tụt lại sau và thường dân từ các vùng tạm chiếm đã hỗ trợ Hồng quân. Họ thực sự có ích cho các Ctrị viên khi xuất hiện trong các buổi tuyên truyền được gọi là để trả thù cho những kẻ gây tội ác với Tổ quốc, nhưng nhiều người đã bị NKVD hoặc SMERSh bắt vì đào ngũ hoặc nghi ngờ phản bội.
Cuộc họp mặt của các tay bắn tỉa tại sở chỉ huy quân đoàn.
Solodkikh: "Thực tế tôi đến từ Voroshilovgrad. Tôi đã trở thành 1 lính bắn tỉa thay vì 1 nông dân nông trang tập thể."
Belugin: "Tôi đến từ vùng tạm chiếm, trước đây tôi chẳng là gì nhưng giờ đây, trong trận phòng thủ này tôi ko còn như vậy nữa. Tôi đang ngồi và quan sát thì Strizhik nói với tôi: "Ko nói nhiều, đúng chứ?" Trung đoàn trưởng, 1 người tài giỏi, bảo: "Tóm lấy 1 cái lưỡi. (*) Sẽ ko tốt đẹp gì khi phải báo cáo lên ban chỉ huy sư đoàn mà ko có 1 cái lưỡi." Cho dù có cả trăm tên Đức chống lại 1 mình tôi, tôi vẫn sẽ chiến đấu theo cùng 1 kiểu, tức là giết chúng đến mức nhiều nhất. Tôi đã từng sống dở chết dở trong trại tù binh suốt 10 tháng, tôi nhảy khỏi tàu khi nó đang chạy hết tốc lực để mong trở về với người của ta. Con trai tôi đã bị giết chỉ vì tên nó là Vladimir Ilich." (**)
Khalikov: "Tôi đã giết 67 mạng người. Tôi đến với mặt trận khi còn chưa nói được từ tiếng Nga nào. Bạn tôi, Burov, đã dạy tôi tiếng Nga còn tôi dạy lại anh ta tiếng Uzbek. Có 1 lần, ko ai muốn đi diệt 1 ổ súng máy, tôi bèn bảo tôi sẽ hạ nó. Tôi nhận thấy có tất cả 12 tên quanh ụ súng, tất cả đều là "Đức thuần chủng". Tôi nguỵ trang kỹ và tim tôi đập bình thường. Tôi đã hạ tất cả 12 tên Đức đó. Tôi ko bao giờ vội vã, nếu tim tôi đập nhanh như 1 cái chân vịt tàu thuỷ, tôi sẽ ko bắn. Chỉ khi nào tôi trấn tĩnh được tôi mới bắn. Nếu tôi bắn trượt chúng sẽ bắn hạ tôi ngay. Tôi đã lấy 1 cái ống nhòm từ cổ 1 tên sĩ quan Đức bị hạ và báo cáo với politruk (Ctrị viên): "Tôi đã hoàn thành nhiệm vụ mà đồng chí giao và tôi mang về cho đồng chí 1 món quà.""
"Bulatov: "Tôi thích săn bọn gà gô đen. Tôi thường nằm mơ thấy vẻ luýnh quýnh của chúng cả ngày lẫn đêm." (Khi quân đoàn trưởng giới thiệu Bulatov và khẩu súng bắn tỉa của anh ta, Bulatov đã vã mồ hôi như tắm và trở nên cáu bẩn.)
Dmitry Yakovlevich Ivanov đến từ Yaroslavl: "Tôi đã bị lạc đội hình 18 ngày trong vòng vây quân địch. 5 ngày ko có thức ăn và 3 ngày ko có nước uống. Chúng tôi đã bơi qua sông Đông, tìm gặp được quân ta và họ giao cho chúng tôi đi trinh sát. (Anh ta nháy mắt với quân đoàn trưởng và cười.)
Romanov người nhỏ thó, miệng rộng: "Tôi đã hạ 135 tên. Xin hãy đặt bản ghi thành tích của tôi lên bàn, tôi sẽ kể cho các bạn về từng trường hợp."
Sư 50 Bộ binh Cận vệ. (***) Phỏng vấn các binh sĩ về việc phòng thủ. "Chỉ huy bảo chúng tôi: "Sẵn sàng nào, chúng ta chuẩn bị tiến lên!" Thế mà chúng tôi đã định trồng vài cây thuốc lá ở đây cơ đấy."
Lính Hồng quân Dmitry Yakovlevich Ostapenko. Anh đã từng bị bắt ở Caucasus, sau đó vượt ngục và đi bộ về làng của cha mình gần Voroshilovgrad. Đột nhiên anh đọc được trên báo là mình đã được truy tặng danh hiệu Anh hùng Liên Xô vì thành tích diệt xe tăng Đức, nhưng anh ko choáng váng lắm với bài báo. Bố anh ngay sau khi xem bài báo đã đến gặp trung đoàn trưởng: "Anh biết ko, các đồng chí ấy đã lấy sạch lúa mạch của tôi, thật là tai hoạ." Trung đoàn trưởng Petukhov trả lời: "Ôi, cứt thật, đừng nói với ai là chúng tôi đã lấy lúa mạch đấy. Tôi sẽ trả ông 10 xe."
(*) "1 cái lưỡi" là tiếng lóng chỉ 1 lính địch bị bắt để thẩm vấn.
(**) Vladimir Ilich đương nhiên là họ và tên lót của Lenin, chúng thường chỉ được viết tắt rồi đến tên ví dụ như Lemar, Lenin hay Marx. Đặt cho con cái tên mang hơi hướm Ctrị rõ ràng như vậy là dấu hiệu bày tỏ sự trung thành với ĐCS nhưng do đó cũng trở thành mục tiêu của bọn phát xít nhiệt tình chống Bolshevik.
(***) Sư 50 Bộ binh Cận vệ đã sát cánh cùng Tập đoàn quân 5 Xe tăng trong Chiến dịch Sao Thổ bao bây Tập đoàn quân 6 Đức tại Stalingrad. Từ tháng 12/1942 đến tháng 4/1943 sư đoàn nằm trong đội hình Tập đoàn quân 3 Cận vệ tân lập.
Buổi mít tinh của các binh sĩ trung đoàn. Đề tài: "Hồng quân - đội quân của những người báo thù." Khi lính Hồng quân Prokhin kể về những cô gái bị bắt đưa sang Đức ở ga Millerovo và tiếng kêu khóc của các cô khi cửa toa bị khoá: "Mẹ ơi, mẹ ơi, cứu con!", các binh sĩ bắt đầu khóc. "Chúng ta phải xoá sổ bọn Hitler ra khỏi Trái Đất này." (*)
Grossman tới Krasnodon, 1 thị trấn mỏ lớn của bể than Donets vùng cực đông Ukraina.
Điều kiện làm việc của các công nhân mỏ dưới sự chiếm đóng của quân Đức. Những người làm việc dưới hầm mỏ được nhận 600g bánh mì thứ phẩm, người làm việc trên mặt đất được 300g. Người nào ko thấy xuất hiện tại nơi làm việc có nghĩa là đã bị tống vào trại tập trung. "Dưới ách chiếm đóng của bọn Đức, chỉ có 1 căng tin, nơi ai cũng có thể nhìn thấy Berlin dưới đáy mỗi đĩa súp." (Nghĩa là đĩa súp trong vắt ko có 1 tí mỡ nào cả.) Chúng đánh mọi người bằng roi khi họ làm việc.
1 thợ mỏ được phỏng vấn nói: "Khi bọn Đức tiến vào thành phố, chúng tôi rời khỏi mỏ. Tôi chạy về nhà, lấy 1 cái bánh mì, từ bỏ gia đình ra đi." Ai mà ko lo lắng về gia đình mình được cơ chứ? Nhưng chúng tôi còn nỗi lo về mỏ nữa. Nếu mỏ còn thì chúng tôi còn."
1 phụ nữ kể cho anh hay là bọn Đức đóng ngay trong nhà anh. Anh nhận được 1 bức thư và khóc. Vợ và các con anh đã chết vì bom. Những người khác lấy harmonica ra chơi bản: "Volga, Volga, người mẹ hiền của tôi."
"Tôi đã gặp được 8 người lính. "Cởi quần áo ra, tắm đi!" 1 trong số họ đưa tôi đồ lót sạch của anh ta. Họ nói với tôi: "Chúng tôi đến cứu anh cũng như đến cứu cha mẹ chúng tôi vậy.""
Grossman đi tiếp tới Voroshilovgrad, nay được gọi là Lugansk, cách đó 100km về phía tây bắc.
Trung đội trưởng Vasilenko đã hi sinh. Công việc của chi bộ Đảng được giao lại cho các Đảng viên khác ngay trong quá trình hành tiến. Vasilenko đã được kết nạp Đảng ngay tại trận địa pháo trong 1 trận đánh gần Stolskoe.
Grossman đã rất ấn tượng vì sự thay đổi tinh thần binh sĩ trong giai đoạn vài tháng sau chiến thắng Stalingrad.
1 sĩ quan pháo binh kể lại kinh nghiệm của anh: "Quân địch tấn công chúng tôi 2 - 3 lần mỗi ngày với khoảng 10 - 15 xe tăng. Chúng tôi đảm nhiệm việc phòng thủ chung. Chúng tôi có 20 khẩu dã pháo. Chúng tôi luôn bình tĩnh và có tinh thần tốt." (Cứ tưởng tượng những gì đã diễn ra hồi năm 1941 rồi so sánh thì biết.)
"Các pháo đội toàn đặt ngay trên mặt tuyết. Chẳng có rừng, cũng ko có thời gian đào hầm. Băng giá, gió rét, chúng tôi vượt qua hết. Điều duy nhất những chiến sĩ của tôi muốn là: Tiến lên!"
Những người hi sinh. Lính thông tin Tupitsin hi sinh. Anh thường kéo cáp chạy tới các vị trí quan sát tiền tiêu vốn thay đổi liên tục theo bước chân những người lính bộ binh. 1 tay anh cầm cuộn cáp còn tay kia cầm lựu đạn. Anh thường nói: "Mặc dù tôi hơi già nhưng đôi chân này còn đủ sức mang tôi tới Voroshilovgrad." Vậy mà anh đã ko bao giờ tới được đó.
Tiến quân xuyên qua bùn lầy, điều đó có ưu nhược điểm của nó. Bọn Đức viết: "Người Nga chưa khởi sự tấn công vì thời tiết vẫn còn tốt." (**)
Tuy nhiên, bọn Đức ko được chuẩn bị tốt cho các hoạt động cần nhiều sức mạnh thể chất, chúng trở nên "trần truồng" khi phải đối mặt với tự nhiên. Người Nga được nuôi dưỡng trong môi trường gian khổ và giành chiến thắng 1 cách khó khăn. Người Đức, ngược lại, được giáo dục về những chiến thắng dễ dàng nhờ sự vượt trội về mặt công nghệ, vậy mà chúng lại bị đưa vào nơi có điều kiện tự nhiên khắc nghiệt. Đại tướng Bùn lầy và Đại tướng Giá rét đã giúp đỡ phe Nga. (Nhưng thực ra chỉ những người mạnh mẽ mới có thể khiến tự nhiên làm việc cho mình còn những kẻ yếu đuối thì phó mặc cho tự nhiên.)
Grossman phát nản vì thiếu các hoạt động quân sự ở vùng Donbass và vì Tổng biên tập ko chịu cho ông có thời gian để viết lách. Ông kể lại điều đó trong bức thư gửi cha ngày 20/3.
Người ta vẫn giữ lời hứa cho con thời gian để viết 1 cuốn tiểu thuyết, nhưng đó vẫn mới chỉ là lời nói suốt từ 3 tháng nay. Con vẫn khoẻ. Thực ra là con có chút vấn đề về tim nhưng giờ thì ổn rồi.
Con mơ thấy mẹ trong 1 đêm đi trên đường. Mẹ trông có vẻ ổn và đầy sức sống. Cả ngày hôm sau con thấy trong người rất kỳ lạ. Ko, con ko tin là mẹ còn sống. Con đã đi khắp các vùng mới giải phóng, và con đã thấy rõ bọn quỷ dữ đáng nguyền rủa đã làm gì với trẻ em và người già. Mà mẹ lại còn là người Do Thái nữa chứ. Càng ngày con càng muốn đổi cây bút này lấy 1 khẩu súng.
Grossman viết lần nữa cho Ortenberg.
Đồng chí Tổng biên tập ... Trong giai đoạn này, tôi thiết nghĩ việc tiếp tục ở trong nhóm của Bukovskoi là ko cần thiết và ko thích hợp. Do đó tôi rất mong được đồng chí triệu hồi.
Lời yêu cầu của Grossman khiến tình hình còn tệ hơn. Ông bị giao 1 nhiệm vụ khác vào tháng 4 khiến ông tức điên lên như ông kể cho cha thế này:
Đúng như con nghĩ, chuyến đi của con thật vô dụng. Chiến sự hoàn toàn yên tĩnh vì đang mùa xuân tuyết tan, sông ngòi gây ngập lụt khắp vùng, thế là chẳng thể đi đâu được nữa. Con vẫn chẳng thu thập được gì để viết báo. Thật khó khăn khi viết về những vấn đề hàng ngày sau trận Stalingrad ... Cha hãy mang thư đến chỗ Đại uý Tikhomirov ở tờ Krasnaya Zvezda để anh ta nhờ ai đó chuyển giúp khi đến chỗ con hay tốt hơn là chuyển qua đường thư mật.
(*) Những cô gái bất hạnh này tuy thế đã tỏ ra ko vui vẻ gì trước sự thương cảm của những người lính Hồng quân dành cho họ khi quân đội Soviet tiến vào nước Đức. Nhiều người trong số họ đã bị hãm hiếp như chính Grossman đã nhận thấy vào năm 1945.
(**) Lính tiền tuyến Đức trên Mặt trận phía Đông tin chắc rằng Hồng quân bao giờ cũng chờ đến lúc thời tiết xấu mới tấn công. Như đã nói, chúng gọi đó là "thời tiết dành cho người Nga".
HAI MƯƠI
TRẬN KURSK
Ngày 1/5/1943, Grossman được quay lại với những hoạt động lớn khi 1 lần nữa gặp lại Tập đoàn quân của Chuikov, đơn vị ông từng biết rất rõ và nay đang là lực lượng dự bị cho Phương diện quân Steppe (Thảo nguyên) đóng phía sau vòng cung Kursk. Cuộc gặp gỡ tuy thế đã khiến Grossman bị shock.
Tôi đã tới chỗ Tập đoàn quân 62 Stalingrad hiện đang đóng trong 1 khu công viên lớn đang mùa trổ hoa - 1 nơi tuyệt vời với những vườn hoa violet và bãi cỏ xanh. Thật là yên bình. Tiếng chim chiền chiện hót líu lo. Tôi đã rất hưng phấn khi đang trên đường đến đây, tôi rất muốn được gặp những người mà với họ tôi đã có biết bao nhiêu kỷ niệm.
Gặp và ăn tối với Chuikov ngoài hiên 1 căn nhà kiểu nông thôn. Xung quanh là vườn cây. Chuikov, Krylov, Vasilyev, 2 viên đại tá thành viên hội đồng quân sự.
Buổi gặp gỡ diễn ra tại 1 nơi lạnh lẽo nhưng những người tham gia thì ai cũng sôi sục. Ai cũng tỏ ra ko thoả mãn, đầy tham vọng, cảm thấy thiếu các danh hiệu và căm ghét bất cứ kẻ nào nhận được những phần thưởng lớn hơn mình, căm ghét luôn cả giới truyền thông. Họ nói về bộ phim "Stalingrad" và nguyền rủa nó. (*) Những con người vĩ đại này đã gây ấn tượng mạnh nhưng xấu. Ko 1 từ nào nói về những người đã ngã xuống, về những kỷ niệm, về ký ức bất diệt dành cho những người ko bao giờ trở về. Ai nấy đều chỉ nói về bản thân và những thành tích của mình.
Bữa sáng với Gurtyev. 1 bức tranh tương tự.
Ko có 1 biểu hiện khiêm tốn nào. "Tôi làm đấy, tôi, tôi, tôi, tôi, tôi ... " Họ nói về các chỉ huy khác mà ko có 1 chút tôn trọng nào, kể những chuyện lố bịch tầm phào: "Tôi xin nói rằng Rodimtsev đã nói thế này ... " Ý chính thực ra là: "Tất cả chiến công này là của chúng tôi, Tập đoàn quân 62. Và trong Tập đoàn quân 62 chỉ có mình tôi còn tất cả những người khác đều ko quan trọng." Đúng là phù phiếm của phù phiếm.
1 cách nào đó, Grossman đã chuẩn bị trước cho điều này. Từ lúc còn ở Stalingrad ông đã gặp gỡ nhiều chỉ huy cao cấp, nhất là Yeremenko, người đã tỏ ra xem thường các thuộc cấp trong các buổi nói chuyện với ông, 1 nhà báo. Yeremenko đã có những gợi ý như này: "Sư đoàn của Rodimtsev đáng ra đã có thể chiến đấu tốt hơn"; "Tôi thường phải khiển trách Gurtyev"; "Chính tôi đã cho chuyển (sở chỉ huy của) Chuikov tới đường hầm Tsaritsa"; "Những người lính Hồng quân tỏ ra có ấn tượng tốt với tôi hơn là các chỉ huy khác. Họ thiếu sức mạnh niềm tin vì ngu dốt."
Có lẽ 1 trong những lý do Chuikov tỏ ra hết sức cay đắng và căm ghét Nguyên soái Zhukov - sự oán hận này đã 1 lần nữa trào dâng ngay trước trận Berlin - là vì Chuikov đã ko được ai cho biết về kế hoạch Chiến dịch Sao Thổ cho đến tận giờ phút cuối cùng. Có lẽ Chuikov cho rằng ông và Tập đoàn quân 62 của ông thay vì được trở thành những người anh hùng nổi bật nhất trong trận Stalingrad thì lại bị buộc phải biến thành con dê mồi trong khi các tập đoàn quân thuộc Phương diện quân Sông Đông của tướng Rokossovsky đóng vai người đi săn bao vây con hổ - Tập đoàn quân 6 Đức. (**)
Grossman có lẽ ko biết được rằng mối băn khoăn của ông về sự thiếu các hoạt động quân sự trong tháng 4 và 5/1943 phản ánh 1 cuộc tranh luận tại cấp tối cao. Stalin muốn mở thêm các cuộc tấn công mới, có lẽ ông ko thể hoàn toàn chấp nhận ý kiến rằng chiến tranh sẽ còn phải trải qua nhiều giai đoạn và ko thể kết thúc chỉ với 1 nỗ lực kịch tính duy nhất. Nguyên soái Zhukov, Nguyên soái Vasilevsky và Tướng A. I. Antonov, những người đứng đầu bộ tổng tham mưu Stavka, đã phải trải qua 1 quãng thời gian rất khó khăn để thuyết phục Stalin rằng Hồng quân cần phải giữ thế phòng ngự, sẵn sàng đối phó với những cuộc tấn công dữ dội mà quân Đức đang chuẩn bị. Trong thời gian chờ đợi đó, họ có thể chuẩn bị 1 lực lượng dự bị chiến lược hùng hậu cho cuộc tổng tiến công mùa hè sắp tới, điều mà Hồng quân chưa bao giờ thử. Stalin đã rất miễn cưỡng chấp nhận đề nghị này trong 1 cuộc họp mang tính quyết định tại điện Kremlin ngày 12/4.
(*) Đây là bộ phim thuộc thể loại thời sự - tài liệu tái hiện sự kiện ngay sau khi nó diễn ra. Bộ phim được nhiệt tình đón xem trên khắp Liên Xô nhưng 1 số cảnh đã bị dàn dựng quá lố. Bản phim được lưu giữ cho thấy nhiều ví dụ về những cảnh bị cắt xén trong đó những người lính ngồi dậy sau khi bị bắn và lại tiếp tục đi lại trong phim.
(**) Nguyên soái Konstantin Konstantinovich Rokossovsky (1896 - 1968), con trai 1 sỹ quan kỵ binh Ba Lan và luôn bị Stalin nghi ngờ. Ông đã bị bắt năm 1937 trong thời kỳ thanh trừng Hồng quân và bị NKVD tra tấn. Ông được trả tự do sau chiến tranh Xô - Phần và chỉ huy Quân đoàn Cơ giới 9 khi quân Đức xâm lược năm 1941. Ông đóng vai trò quan trọng trong trận Moscow với tư cách là chỉ huy Tập đoàn quân 16. Năm 1942, ông chỉ huy Phương diện quân Sông Đông trong giai đoạn then chốt của trận Stalingrad. Ông là người chỉ huy chính trong trận Kursk năm 1943 và sau đó chỉ huy Phương diện quân Belorussia 1 trong Chiến dịch Bagration và cuộc tiến công vào Warsaw. Cuối năm 1944, Stalin thiên chuyển ông tới chỉ huy Phương diện quân Belorussia 2 vì ko muốn 1 người Ba Lan hưởng vinh quang đánh chiếm Berlin. Vinh dự này được dành cho 1 người bạn đồng thời cũng là đối thủ của ông, Nguyên soái Zhukov. Sau chiến tranh, ông làm Bộ trưởng Quốc phòng Ba Lan.
Cuộc tấn công chính mùa hè được người Đức gọi là Chiến dịch Zitadelle có lẽ ít gây được bất ngờ nhất so với tất cả các cuộc tấn công khác trong toàn cuộc chiến. Kế hoạch tấn công của người Đức có lẽ theo 1 kiểu duy nhất, với các mũi nhọn thiết giáp nhắm vào trung tâm mấu lồi Kursk, 1 từ hướng bắc và 1 từ hướng nam. Hitler bố trí 50 sư đoàn trong đó có 19 sư thiết giáp với 2.700 xe tăng và pháo tự hành. Toàn bộ chiến dịch được yểm trợ bởi hơn 2.600 máy bay.
Chi tiết về sự chuẩn bị của người Đức và các lý do dẫn đến việc chậm mở chiến dịch đã được những người cánh tả chống chính phủ quốc xã chuyển cho phía Liên Xô theo nhiều cách. Thông tin còn đến từ nhiều nguồn khác như các cuộc trinh sát đường ko hay mạng lưới tình báo của du kích tại các vùng tạm chiếm. Kết quả là Stavka đã có thể tập trung hơn 1 triệu quân để phòng thủ khu vực này (tức là vượt trội đối phương 2 lần về quân số) và dựng nên 1 tuyến phòng ngự kiên cố chưa từng thấy trên Mặt trận phía Đông. Thêm vào đó là nửa triệu quân dự bị được biết tới dưới cái tên "Phương diện quân Steppe" được tập hợp và bố trí tại hậu tuyến để sẵn sàng cho cuộc phản công.
Ở phía bên kia, Hitler tin rằng những chiếc xe tăng Mark VI Tiger mới được trang bị sẽ là bất khả chiến bại. Trận Kursk vì vậy đã trở thành cuộc đụng độ nổi tiếng nhất và vĩ đại nhất của các lực lượng thiết giáp trong lịch sử nhân loại, nhưng kèm theo đó cũng nên quan tâm đến những hoạt động quan trọng khác của các lực lượng còn lại. Công binh Soviet đã bố trí 1 hệ thống bãi mìn khổng lồ, pháo binh Hồng quân, đặc biệt là hàng trăm pháo đội chống tăng mới là người đóng vai trò chính, kèm theo đó là những chiếc Shturmovik cường kích mặt đất đã tập trung pháo và phóng bom xuyên giáp vào những chiếc xe tăng Đức.
Grossman đã tới mặt trận ngay trước khi trận đánh bắt đầu và phỏng vấn các sĩ quan tình báo tại Sở chỉ huy Phương diện quân Trung tâm do Nguyên soái Rokossovsky chỉ huy. Những ghi chép ngắn của ông sau đó đã phản ánh sự ngoan cố của người Đức khi tấn công vào 1 khu vực phòng thủ cực kỳ kiên cố ở cánh bắc mấu lồi Kursk. Hướng tấn công này xuất phát từ nam Orel và tỏ ra kém may mắn hơn so với hướng kia, nó được Hồng quân gọi là "trục Orel".
Gánh nặng khổng lồ đặt lên vai quân Đức tại trục Orel khi những viên phi công thông báo cho chúng biết tuyến phòng ngự quân ta mạnh đến mức nào. (Chúng ko có quyền lựa chọn và đều đã bị nhồi sọ)
Đánh giá thấp đối thủ và sức mạnh của đối thủ là bệnh thường gặp của quân Đức. Đó là do những thành công của chúng trong các năm trước.
Thiếu thông tin về nguy hiểm đang đến gần dẫn tới các cuộc tranh luận xem đâu là sự thật. Sự tập trung của Luftwaffe đóng vai trò quan trọng nhất trong việc giải mã các sự kiện. (*) Có thông báo về sự xuất hiện của các tướng lĩnh và thống chế địch.
1 công binh Đức bị bắt đêm 4/7, hắn tiết lộ cuộc tấn công sắp bắt đầu và đã có lệnh gỡ hết mìn. Ơn trời là điều đó đã cho phép quân ta có thể giáng lên đầu địch 1 trận pháo phản chuẩn bị kéo dài 2h vào mờ sáng ngày 5/7.
Thông thường, các sĩ quan tham mưu chiến dịch có vẻ xem thường cánh trinh sát (và tình báo - 2 khái niệm này được ghép làm 1 trong quân đội Nga - Maseo).
Chúng tôi tiến vào làng Kuban (**) đầy khói bụi giữa 1 hàng xe cộ hàng nghìn chiếc. Làm sao mà tìm nổi 1 người bạn giữa đống hỗn độn này? Đột nhiên tôi nhìn thấy 1 chiếc xe con với những cái lốp rất mới đỗ trong 1 ngôi nhà. Tôi đoán: "Xe mà có lốp mới phi thường như vậy thì nếu ko phải của chỉ huy Phương diện quân Rokossovsky thì chỉ có thể là của Đại uý Lopavsky, phóng viên TASS." Chúng tôi vào nhà, 1 người lính đang ăn súp củ cải đỏ trên bàn. "Ai đang ở nhà này thế?" Chú lính trả lời: "Đại uý Lopavsky, phóng viên TASS." Ai nấy đều quay nhìn tôi, tôi đã có cảm giác mình hiểu được Newton cảm thấy gì khi phát hiện ra định luật vạn vật hấp dẫn.
(*) Ko rõ là Grossman viết thế có ý gì. Xét trên việc Hồng quân luôn ưa thích việc giữ bí mật thì thật đáng ngạc nhiên khi 1 phóng viên tờ Krasnaya Zvezda bình thường có thể nói bất cứ điều gì về chuyện giải mã, và ông cũng chưa từng có lưu ý nào cho thấy ông biết về kinh nghiệm giải mã của người Anh. Luftwaffe đã thiếu quan tâm đến việc giữ bí mật điện đàm, nhờ đó người Anh đã bẻ khoá thành công mật mã của họ.
(**) Cách Orel gần 100km về phía đông nam và cách Kursk khoảng 130km về phía bắc - đông bắc.
Grossman tới Ponyri phỏng vấn các pháo thủ chống tăng đã làm hết sức mình để đẩy lui cuộc tấn công ồ ạt của quân Đức. Ga Ponyri nằm cách Kursk khoảng 100km về phía bắc, tại đây ngay từ ngày 6/7, ngày thứ 2 của trận chiến, Rokossovsky đã mở cuộc phản công dữ dội đầu tiên bằng Tập đoàn quân 2 Xe tăng. Trong vòng chưa đầy 1 tuần, Phương diện quân Trung tâm của ông đã chặn đứng được mũi thọc sâu của Tập đoàn quân 9 Đức.
Tới thăm Ponyri. Trung đoàn của Shevernozhuk. Những câu chuyện về các pháo đội 45mm nã đạn vào những chiếc Tiger. (*) Viên đạn bắn trúng nó nhưng bật ra như 1 quả đậu. Đã có những trường hợp pháo thủ hoá điên sau khi nhìn thấy cảnh đó.
Sau khi đến thăm khu vực phía bắc, Grossman tới khu vực phía nam quan trọng hơn. Cuộc tấn công của quân Đức tại đây cũng được bắt đầu vào ngày 5/7 và do Tập đoàn quân Thiết giáp 4 của tướng Hoth đảm nhiệm. Đơn vị này tập trung những lực lượng thiện chiến của quân đội phát xít, bao gồm Sư đoàn cơ giới Grossdeutschland (Đại Đức) và Quân đoàn 2 Thiết giáp SS với 3 sư SS: Leibstandarte Adolf Hitler, Totenkopf và Das Reich. Sử dụng những chiếc Tiger làm quả đấm tiến công, các lực lượng của Hoth đã chọc thủng được tuyến phòng ngự thứ 3 nhưng sau đó bị Tập đoàn quân Xe tăng 1 của Katukov phản công. Thời điểm quyết định trận chiến đến sau 1 tuần đánh nhau, 1 lực lượng lớn xe tăng của Quân đoàn 2 Thiết giáp SS đã phá vỡ điểm đầu mối đường sắt Prokhorovka. Tướng Vatutin chỉ huy Phương diện quân Voronezh phụ trách khu vực này đã ngay lập tức liên lạc với Nguyên soái Zhukov và được Zhukov đồng ý cho mở 1 cuộc phản công tức thì với 5 tập đoàn quân trong đó có 2 lấy từ Phương diện quân Steppe dự bị. Cuộc phản công diễn ra vào ngày 12/7 do Tập đoàn quân 5 Xe tăng Cận vệ dẫn đầu, đây là đơn vị đã đóng vai trò chính trong cuộc bao vây Tập đoàn quân 6 Đức ở Stalingrad tháng 11 trước đó.
Pháo 88m của những chiếc Tiger mạnh hơn hẳn khiến những lính tăng Soviet buộc phải liều mạng vượt qua đồng trống mới tiếp cận được đủ gần để hạ chúng, 1 số thậm chí phải đâm thẳng vào xe tăng địch. Tại Prokhorovka đã có trên 1.200 xe tăng tham chiến, lực lượng thiết giáp Soviet đã hứng chịu 1 tổn thất lên tới trên 50% nhưng điều đó là đủ để đập tan nỗ lực cuối cùng của lực lượng thiết giáp Wehrmacht. Bãi chiến trường phủ khắp nơi những xác xe tăng cháy, những người chứng kiến so sánh nó với 1 nghĩa địa dành cho loài voi. Trong vòng 6 ngày sau đó, những lực lượng còn lại của người Đức chỉ còn chiến đấu để rút lui. Cuộc đổ bộ của quân Anh - Mỹ vào Sicily đã buộc Hitler rút các đơn vị then chốt khỏi trận đánh, ném chúng sang phía tây đề phòng các mối đe doạ mới ở khu vực Nam Âu. Có lẽ Hitler qua trận đánh này muốn tìm 1 cứu cánh cho cuộc chiến tai hại của hắn bằng 1 chiến thắng quyết định của Wehrmacht, nhưng Hồng quân đã 1 lần nữa chứng minh sự trưởng thành vượt bậc về khả năng chỉ huy, tinh thần binh sĩ và hiệu quả của cách bố trí lực lượng. (**)
Grossman đã tới chỗ 1 lữ đoàn pháo chống tăng đang bảo vệ 1 vị trí then chốt của trận chiến. Như Ortenberg sau này viết: "Lữ đoàn này phải đương đầu với bọn Đức đang cố gắng thọc từ nam tới bắc về hướng Belgorod theo tuyến đường cao tốc Belgorod - Kursk. Vasily Grossman đã được tận mắt nhìn chiến địa, cậu ấy nhìn thấy cả những thiết bị chiến tranh của địch bị phá huỷ lẫn những xe tăng và pháo tự hành ta bị bắn cháy. Cậu ấy đã quan sát những chiến sĩ ta cả khi rút lui lẫn lúc tiến công."
(*) Grossman giống như phần lớn Hồng quân thường nói đến những chiếc xe tăng "T-6" theo cách gọi của phe Soviet đối với các loại xe thiết giáp, thực tế đây chính là chiếc Mark VI Tiger. Để cho đơn giản, chúng tôi đã thay từ "Tiger" vào từ "T-6" đặt trong ngoặc kép ở bản gốc. 1 số bản phỏng vấn của Grossman cũng dùng từ "Tiger", khi đó chúng tôi để nguyên.
(**) 1 số nhà sử học thậm chí cho rằng trận Kursk chính là điểm bước ngoặt của cuộc chiến, nhưng như đã được khẳng định, trận phòng thủ Moscow mới là điểm bước ngoặt về mặt địa Ctrị còn trận Stalingrad là điểm bước ngoặt về mặt tâm lý.
Trục Belgorod. Lữ đoàn chống tăng, chỉ huy Nikofor Dmitrievich Chevola. "Tôi ko thích làm việc tại chỉ huy sở," ông nói. "Tôi đang cầu nguyện được miễn cho việc đó. Nếu có đánh nhau tôi sẽ lao ra ngay." Chevola có 4 anh em trai: Aleksandr, pháo binh - đã hi sinh; Mikhail, chỉ huy 1 trung đoàn pháo hạng nặng; Vasily, giáo viên triết và nay đang làm Ctrị viên; Pavel, chỉ huy 1 tiểu đoàn súng máy. Em gái ông, Matryona, trước chiến tranh là 1 cô giáo, tham gia quân đội rồi được giải ngũ sau khi bị nhiều vết thương. Cháu gái ông đang học lái máy bay.
"Luftwaffe đang ném bom quân ta. Chúng tôi đang chìm trong khói lửa nhưng người của tôi chưa đến nỗi rối loạn. Họ vẫn tiếp tục bắn chẳng quản bom đạn. Tôi đã bị thương 7 lần. Xe tăng Đức mở cửa và bộ binh của chúng xung phong.
"Bom đạn nổ liên miên, mặt đất rung chuyển, lửa cháy khắp nơi, chúng tôi phải gào lên. Trên điện đài, bọn Đức cố gắng đánh lừa chúng tôi. Chúng hét trong điện đài: "Tôi là Nekrasov, tôi là Nekrasov." Tôi quát trả: "Cứt chó! Mày ko phải Nekrasov, cút đi." Chúng gây nhiễu điện đài quân ta bằng những tiếng rít. Đám Messer quần đảo trên đầu, thượng sĩ Urbisupov bắn hạ được 1 chiếc bằng tiểu liên khi nó bổ nhào vào anh ta. Bọn Messer oanh tạc các tuyến hào, hết dọc lại đến ngang, vì vậy mọi người phải ẩn núp trong những khúc ngoặt.
"Chúng tôi đã ko ngủ 5 đêm rồi, mà yên tĩnh thì chỉ tổ căng thẳng thêm. Chúng tôi cảm thấy ổn hơn khi có đánh nhau, sau đó người ta cảm thấy buồn ngủ. Chúng tôi ăn khi có thể và chẳng bao giờ đủ thời gian. Thức ăn trở nên đen nhẻm vì bụi đất và dầu mỡ. Khi chúng tôi được rút ra nghỉ, tất cả chui vào 1 kho thóc và ngủ ngay lập tức."
Nikolai Efimovich Plysyuk, chỉ huy trung đoàn 1: "Chẳng có lính bộ binh nào bố trí trước các khẩu pháo của chúng tôi. Chỉ có chúng tôi đối mặt trực diện với Thần Chết. Chúng tôi được cấp đúng 1 chiếc jeep Willy vào ngày cuối cùng của trận đánh. Tôi muốn thưởng cho nó 1 ngôi Sao Vàng Anh Hùng vì nó đã cứu cả trung đoàn tôi. Những người lính đã phải kéo pháo đi 6km bằng tay trong khi tất cả họ đều đã bị thương, ai nấy đều quấn băng.
Pháo thủ Trofim Karpovich Teplenko: "Đây là trận đánh đầu tiên của tôi. Lúc đó trời chạng vạng tối, chúng tôi nạp đạn vạch đường và bắn trúng chiếc tăng ngay phát đầu, nó chưa đủ là mối đe doạ với cánh pháo binh. Chỉ có bọn bộ binh và lính tiểu liên địch mới gây rắc rối cho chúng tôi. Tất nhiên là rất vui khi bắn trúng 1 chiếc Tiger, viên đạn đầu tiên của tôi bắn trúng trước mặt nó, ngay dưới tháp pháo ... và chiếc tăng dừng lại ngay lập tức. Sau đó tôi bắn tiếp nó liền 3 phát. Đám bộ binh bố trí trước tôi hô: "Ura!" tung mũ sắt và pilotka (mũ vải) lên trời, nhảy lên khỏi hào ăn mừng.
"Đó là 1 trận đánh mặt đối mặt. Giống như 1 cuộc quyết đấu tay đôi pháo chống tăng đấu với xe tăng. Đầu và chân của trung sĩ Smirnov bị thổi bay, chúng tôi đi tìm đầu của anh ấy mang về, cả 2 chân nữa, bỏ tất cả xuống 1 lỗ huyệt nhỏ và lấp đất. Sau trận đánh, quân đoàn trưởng đứng bên con đường đầy bụi đất, ông vẫy tay với những người lính chống tăng và chia thuốc lá cho họ ... 1 khẩu pháo chống tăng sau 1 trận đánh giống như 1 người sống và từng trải. Lốp te tua và rất nhiều bộ phận hỏng vì trúng mảnh đạn."
Lời kể của Teplenko rằng pháo chống tăng 45mm có thể hạ những chiếc Tiger Đức dễ dàng xuất hiện trong nhiều trích đoạn lạc quan mà Grossman chép lại từ nhật ký chiến trường của lữ đoàn.
1 pháo thủ bắn trực xạ vào 1 chiếc Tiger bằng pháo chống tăng 45mm. Các viên đạn đều nảy bật ra. Pháo thủ mất trí và lao mình vào chiếc Tiger.
1 trung uý bị thương vào chân và cụt 1 tay vẫn chỉ huy pháo đội chống trả cuộc tấn công của xe tăng địch. Sau khi quân địch rút lui, anh ta đã tự sát vì ko muốn sống trong cảnh tàn phế. (*)
Grossman đã ở cùng lữ đoàn chống tăng của Chevola gần ga Ponyri trong phần lớn thời gian diễn ra trận đánh hào hùng này.
Trận đánh đã kéo dài 3 ngày 3 đêm ... Khói đen bốc mù trời, khuôn mặt mọi người cũng đen nhẻm. Giọng nói trở nên khàn đục vì trong tiếng động rầm rĩ của chiến trận phải gào lên người ta mới nghe thấy. Mọi người tận dụng từng phút để ăn, và những miếng mỡ lợn trắng lập tức biến thành mầu đen vì khói bụi. Ko ai nghĩ đến chuyện ngủ, nhưng nếu ai đó có được 1 phút nghỉ ngơi họ thường ngủ nguyên cả ngày, giữa tiếng gầm rú của trận đánh, ngay trên mặt đất rung bần bật và kể cả là giữa 1 trận động đất. Đêm xuống, sự im lặng trở nên đáng sợ, thần kinh căng thẳng và nỗi sợ sự im lặng khiến ko ai dám ngủ. Chỉ ban ngày người ta mới cảm thấy ổn hơn trong sự hỗn loạn đã trở thành chuyện thường ngày.
(*) Viễn cảnh trở thành người tàn phế lúc nào cũng đáng sợ với những người lính Soviet hơn cái chết rất nhiều. Trong đó tất nhiên có cả niềm tin rằng 1 người phụ nữ sẽ ko bao giờ muốn nhìn thấy lại họ trong tình trạng như vậy. Đó là 1 cơn ác mộng đáng sợ đối với đàn ông, nhưng điều tồi tệ thật sự chỉ đến với họ sau chiến tranh khi những thương phế binh Hồng quân bị nhà cầm quyền Soviet đối xử nhẫn tâm đến mức ko thể tin nổi. Họ như những thân cây bị đẵn gốc và bị gọi là samovar. Sau chiến tranh họ bị tập hợp lại và gửi tới các thị trấn miền cực bắc để thủ đô Soviet ko trở nên khó coi vì những cựu binh tàn phế.
Những bài viết của Grossman mang "sự thật trần trụi của chiến tranh" tất nhiên ko làm cho các biên tập viên tờ Krasnaya Zvezda cảm thấy dễ chịu, nhưng Ortenberg rất tôn trọng ông như chính ông ta viết: "Grossman luôn viết đúng thực tế. Ở Stalingrad, Vasily Semyonovich đã ngày đêm viết ra những bài viết đặc sắc nhất giữa chiến trận nóng bỏng. Cậu ta lại làm thế ở vòng cung Kursk. Những dòng sau đây chứng minh điều đó: "Tôi đã tới thăm đơn vị hứng chịu đòn đánh chủ yếu của địch ..." "Chúng tôi đang nằm dưới hào nghe pháo quân ta bắn và đạn của bọn Đức nổ ..." Cậu ấy đã nhìn thấy những người lính Soviet chết và bị thương, cậu ấy nghĩ thật nhục nhã nếu ko viết gì về họ. Với nhiều khó khăn, chúng tôi vẫn bám sát sự thật trong các bài viết của cậu ấy được đăng tải: "Pháo đội trưởng Ketselman đã bị thương. Anh đang nằm trong vũng máu đen sậm ..."" Cơ quan kiểm duyệt Soviet muốn cắt bỏ những hình ảnh tàn bạo như vậy nhưng ít ra trong trường hợp này, Ortenberg đã thuyết phục được họ để nguyên bài viết của Grossman. Đây là 1 phần bài viết:
Ko ai trên khắp thế giới vào lúc này xứng đáng được nghỉ ngơi như những người lính Hồng quân đang ngủ bên những vũng nước mưa này. Con hào nơi đất và cành lá nguỵ trang rung lên vì đạn bắn và những tiếng nổ này với họ giống như vùng hậu phương xa xôi, đại khái giống Sverdlovsk hay Alma - Ata. Bầu trời đầy lửa đạn và khói trắng từ những khẩu cao xạ đang khai hoả chống lại 26 chiếc máy bay ném bom bổ nhào Đức đang đánh vào ga tàu hoả đối với họ thật là quang đãng, yên bình. Họ nằm đây, ngủ ngay trên cỏ ướt, bên những khóm hoa và gối đầu lên đám lá ngưu bàng mềm mại ...
1 sĩ quan phụ trách 1 cánh của lữ đoàn đã định rút lui khiến cả lữ đoàn có nguy cơ phải rút theo. Nhưng lữ đoàn trưởng, người có thể nhận rõ hậu quả của cuộc rút lui, đã trả lời: "Chúng ta ko rút, chúng ta sẽ ở đây đến chết!" Viên sĩ quan đã chấp nhận và thực hiện lệnh đó.
Sáng sớm, xe tăng Đức bắt đầu tấn công. Cùng lúc máy bay địch oanh tạc khiến cả ngôi làng bốc cháy ...
Pháo đội trưởng Ketselman bị thương. Anh đang nằm trong vũng máu đen sậm; bộ phận pháo binh tiền tiêu đã tan vỡ. 1 phát đạn bắn thẳng thổi bay đầu và 1 cánh tay của 1 pháo thủ. Thượng sĩ Melekhin, chỉ huy khẩu đội, 1 người vui tính, cực kỳ nhanh nhẹn đến mức thỉnh thoảng có thể ra những quyết định sống còn chỉ trong 1/10 giây, đang nằm lăn dưới đất vì bị sức ép, nhìn khẩu pháo với ánh mắt dữ dội và tối tăm. Khẩu pháo làm ta liên tưởng đến 1 người cùng khổ rách rưới, những mảnh cao su treo lủng lẳng trên bánh xe, lốp nổ tung ...
Chỉ còn mỗi người vác đạn Davydov là còn đứng được trên 2 chân, và bọn Đực đã đến rất gần. Chúng đã "sờ vào nòng pháo" như cách nói của dân pháo binh. Đúng lúc đó thì chỉ huy khẩu đội bên cạnh Mikhail Vasiliev nhận ra tình thế. Đây là những lời anh ta nói: "Các anh em, chết chẳng có gì đáng tiếc, thậm chí những người thông minh hơn chúng ta cũng vẫn chết." Và anh ta lệnh cho lính khai hoả vào bọn bộ binh Đức bằng đạn ghém. Sau khi hết đạn sát thương, họ bắt đầu bắn vào những tên lính tiểu liên Đức ở tầm trực xạ bằng đạn xuyên giáp. Thật là 1 cảnh tượng ghê rợn.
Grossman cũng gặp được cả Sư 13 Bộ binh Cận vệ, đơn vị từng do tướng Rodimtsev chỉ huy ở Stalingrad. Ông chụp lấy cơ hội này để phỏng vấn viên chỉ huy mới về trận đánh.
Cuộc gặp gỡ với Sư 13 Bộ binh Cận vệ của Rodimtsev tại vòng cung Kursk, giờ nó do tướng Baklanov chỉ huy, ông ta còn trẻ và khi chiến tranh bắt đầu mới là đại úy, vốn là vận động viên điền kinh ở Moscow.
"Sovinformburo (Thông tấn xã Liên Xô - Maseo) đã viết từ hồi chiến tranh mới bắt đầu rằng "nhiều lô cốt của bọn Đức bị tiêu diệt", nhưng tôi chưa từng thấy 1 lô cốt Đức nào hết. Chúng chỉ có hào thôi. Các chiến sĩ ta giờ đã biết chiến đấu 1 cách thông minh, ko còn lóng ngóng nữa. Họ chiến đấu như thể đó là 1 công việc vậy.
"Những biểu hiện yếu kém trong trận chiến. Các đơn vị bổ sung di chuyển đến vị trí mới, họ ko có thời gian làm quen với tình thế. 1 số chỉ huy ko biết cỡ nòng và tầm bắn của những khẩu pháo họ có. Họ ko biết tính số lượng mìn, dây kẽm gai trên mỗi km, mức độ hoả lực cần thiết để ghìm đầu quân phòng ngự địch xuống. "Cần bắn về đằng kia!" và họ phất tay.
"Thỉnh thoảng các trung đoàn trưởng báo cáo láo về trận đánh. Tôi thường phải đi từ 2h trước mỗi trận tấn công để kiểm tra các thông tin, trong khi đó 1 viên trung đoàn trưởng có thể chỉ rời sở chỉ huy 10 phút trước trận đánh và rồi báo cáo với tôi: "Mọi thứ đã sẵn sàng, tôi đã biết rõ mọi điều." Mối nguy hiểm lớn nhất chính là tính kiêu căng tự phụ.
"Có nhiều chỉ huy ko quan tâm tới đồ ăn thức uống và đời sống hàng ngày của binh lính, họ ko thử tìm hiểu tâm tư người lính. Các chỉ huy thỉnh thoảng tỏ ra rất hắc, nhưng khi có thời gian tạm nghỉ giữa trận đánh họ lại ko đến với người của mình, nói chuyện và hỏi han họ. Thường đó là bởi các chỉ huy còn quá trẻ. Thỉnh thoảng có trường hợp lính có con lớn tuổi hơn cả chỉ huy.
"Những lời hô hào "Tiến lên, tiến lên!" nếu ko phải là kết quả của sự ngu dốt thì chỉ là do sự sợ hãi của các cấp chỉ huy mà thôi. Đó là lý do khiến rất nhiều máu đã đổ vô ích."
Lại 1 lần nữa Grossman nhận ra rằng sau tất cả những biện pháp tăng cường khả năng chỉ huy trong các năm vừa qua, nhiều đơn vị vẫn phải tiếp tục chịu đựng các chỉ huy Hồng quân bất tài và các sĩ quan tham mưu chỉ nghĩ đến chuyện né tránh trách nhiệm.
Đại tá Vavilov, Sư đoàn phó phụ trách Ctrị. "Chúng tôi được đặt trong tình trạng báo động vào nửa đêm mồng 8 rạng ngày 9/7. Mệnh lệnh đề ra là các trung đoàn phải sẵn sàng vào sáng sớm. Chúng tôi hành quân suốt cả ngày 9/7, đó là 1 ngày nóng khủng khiếp, tại 1 trung đoàn đã có 70 người bị gục ngã vì say nắng. Quân ta còn phải mang theo súng máy, cối và đạn dược mà. Đêm ngày 9/7 chúng tôi chỉ được nghỉ đúng 3h. Đến khu vực Oboyan, chúng tôi bắt đầu bố trí phòng thủ và đào hào. Rồi lại có 1 mệnh lệnh khác đưa tới, chúng tôi phải phụ trách 1 vị trí khác cách đó 25km. Mờ sáng ngày 12 chúng tôi tới điểm xuất phát tấn công và ngay lập tức xung trận khi mới chỉ có 2 trung đoàn có mặt. Chẳng phải Tướng Zhukov đã nói: "Đừng bực mình khi phải rút lui 5 - 6km, điều đó còn tốt hơn là ném những người lính mệt mỏi và chưa được trang bị đạn dược vào trận chiến!"
Mặt khác, Grossman lần đầu tiên thấy rõ rằng 1 số vấn đề đã được cải thiện khá hơn hẳn.
Theo quan điểm của cánh pháo binh, hoạt động ở Kursk phức tạp hơn Stalingrad nhiều. Tại Stalingrad lũ thú vật đã bị nhốt trong rọ, còn ở Kursk pháo binh vừa là tấm lá chắn chống lại đòn tấn công của địch vừa là mũi kiếm nghiền nát chúng trong cuộc phản công. (*)
Grossman cũng phỏng vấn 1 số phi công tại 1 trung đoàn máy bay cường kích Shturmovik được giao yểm trợ các hoạt động tấn công dưới mặt đất, chủ yếu là để diệt tăng. (**) Các trung đoàn Shturmovik báo cáo họ đã gây thiệt hại đáng kể cho các sư đoàn 3, 9 và 17 Thiết giáp Đức trong trận đánh này. Những chiếc Shturmovik thường chỉ bay cách mặt đất chưa tới 20m, có vẻ như các phi công hơi khoác lác, và ngược lại thiệt hại của họ cũng rất nặng nề.
Nikolai Vladimirovich Shalygin, dân Saratov, thiếu tá, phi công của 1 trong các trung đoàn Shturmovik: "Aleksukhin đang bay rất thấp tấn công đoàn xe địch, thực ra là quá thấp khiến cho khi trở về người ta thấy đầu mút những cánh quạt máy bay của anh ta cong vẹo đi. Tôi thì đang lượn vòng và phát hiện 1 chiếc tăng trên cánh đồng lúa mạch, tháp pháo của nó đã bay mất.
"Phi công Yuryev quay về với máu chảy đầy mặt. "Tôi xin báo cáo." Anh ta báo cáo xong rồi ngã gục xuống bất tỉnh nhân sự. Xạ thủ kiêm điện đài viên đã trèo ra trước, máu me đầy mình.
"Kích động như trong 1 cuộc đi săn, tôi cảm thấy mình giống 1 con diều hâu chứ ko phải người. Chẳng ai nghĩ đến chuyện nhân đạo hết. Ko, ko có những suy nghĩ kiểu đó. Chúng tôi quét sạch con lộ. Thật tốt đẹp khi con lộ đã bị dọn sạch và mọi thứ chìm trong lửa."
Con lộ này thậm chí còn bị dọn sạch hơn trong cuộc tổng phản công của quân Soviet, nó là sự phát triển của cuộc phản công tại Prokhorovka ngày 12/7. Chiến dịch Kutuzov mở màn cùng ngày trên cánh bắc nhằm chống lại quân Đức đang chiếm đóng khu vực nằm giữa vòng cung Kursk và thành phố Orel. Người Đức đã ko lường được 1 phản ứng quá nhanh chóng như vậy. Đối với Grossman đây là lúc vui mừng tột độ vì ông đã có những kỷ niệm chua xót tại đây khi thành phố bị quân Đức đánh chiếm mùa thu năm 1941.
Ortenberg, vẫn còn nhớ những gì Grossman trải qua khi đó, đã làm mọi việc để chắc chắn rằng Grossman sẽ chính là người phóng viên đưa tin về cuộc giải phóng Orel. "Tôi xin nói là tôi ko bao giờ quên vụ đó, và trong những ngày tháng 7 ấy khi mà việc giải phóng Orel là ko còn nghi ngờ gì nữa tôi đã nói với Grossman: "Vasily Smyonovich, Orel là nỗi đau của anh, vậy tôi xin anh hãy ở đó vào ngày thành phố được giải phóng, chắc anh sẽ nhớ đến cái ngày anh phải rời khỏi nó." Grossman đã ở Orel hôm thành phố được giải phóng và viết 1 bài về những ngày bi kịch sợ hãi khi thành phố thất thủ năm 1941 ... Khi tôi đọc bài viết, tôi hiểu Grossman đã trải qua những gì trong tháng 10 năm 1941 đó. Tôi gặp cậu ta 1 năm sau trận Kursk, khi ấy tôi cũng đang ở ngoài mặt trận. (***) Trong cuộc nói chuyện giữa chúng tôi với nhau tôi có nhắc cậu ấy về quãng thời gian bất hạnh đó để cậu ấy hiểu tôi cảm thấy mình đã ko phải với cậu ấy. Cậu ấy mỉm cười và nói 1 cách chân thành: "Tôi ko giận ông." Rồi cậu ta thêm: "Thời gian đâu mà nghĩ đến chuyện đó cơ chứ.""
(*) Bản gốc của Grossman thực ra ghi là "tiến công" như cách nói của Hồng quân, trong khi đó quân đội các nước phương Tây dùng từ "tấn công" hoặc "công kích", hay trong trường hợp này "tiến công" có nghĩa là cuộc tổng phản công.
(**) Ilyushin - 2M "Shturmovik" là loại máy bay cường kích mạnh mẽ, được bọc giáp tốt chống lại hoả lực phòng ko và là 1 trong số ít loại máy bay Soviet hoạt động hiệu quả trong WW2. Nó được trang bị 2 pháo 23mm cùng với rocket hoặc bom chống tăng. Tổ lái bao gồm 1 lái và 1 xạ thủ súng máy đuôi kiêm liên lạc viên radio.
(***) Ortenberg thôi làm Tổng biên tập tờ Krasnaya Zvezda để trở thành "uỷ viên Hội đồng quân sự" 1 tập đoàn quân, thực ra là Chính uỷ tập đoàn quân đó. Như đã đề cập, Ortenberg cũng là 1 người Do Thái nên khi tư tưởng bài Do Thái dâng cao trong các Đảng viên Stalinist, ông bị thiên chuyển khỏi 1 vị trí vốn rất có ảnh hưởng.
Chúng tôi tới Orel chiều ngày 5/8 theo đường cao tốc Moscow, phóng xe qua Tula tưng bừng và sầm uất, qua Plavsk, Chern. Trên đường chúng tôi đi thấy rõ những vết thương mà bọn Đức đã gây ra trên đất nước ta.
Ở Mtsensk, cỏ mọc trong những căn nhà đổ, có thể nhìn thấy bầu trời xanh qua những ô cửa sổ trống hoác của những ngôi nhà tốc mái. Hầu như mọi làng mạc nằm giữa Mtsensk và Orel đều bị cháy trụi, những izba đổ nát vẫn còn bốc khói. Người gà và trẻ em đang đào bới những đống gạch vụn để tìm những gì còn sót lại: nồi niêu xoong chảo, những khung giường thép méo mó vì lửa, máy khâu. Cảnh tượng thật đau đớn mà thân thương làm sao!
1 tấm bảng trắng đẽo sơ sài ghi "Orel" được đóng cạnh chỗ giao cắt đường tàu ... có mùi khét trong ko khí, những làn khói nhẹ bốc lên từ những đám cháy đang tắt dần ...
1 dàn đồng ca đang hát bài Quốc tế ca trên quảng trường. Poster và biểu ngữ đang được dán trên những bức tường, tờ rơi được phát cho dân chúng. Những cô gái má hồng điều kiển giao thông đứng trên tất cả các ngã tư, vẫy nhanh những lá cờ nhỏ màu xanh và đỏ. 1 rồi 2 ngày đã trôi qua, và Orel đã bắt đầu trở lại với cuộc sống thường nhật, với công việc và học hành ...
Tôi nhớ tới thành phố Orel mà tôi đã thấy chính xác là 22 tháng trước, trong những ngày tháng 10/1941 khi mà những cỗ xe tăng Đức xông vào thành phố từ phía đường cao tốc Kromsk. tôi nhớ đêm cuối cùng ở Orel, 1 đêm khủng khiếp và ghê rợn, tiếng gầm rú của những cỗ xe chạy loạn, tiếng kêu khóc của những người phụ nữ chạy theo đoàn quân rút lui, gương mặt âu sầu của mọi người như thể đang trách móc tôi với đầy vẻ lo lắng và đau khổ. Tôi nhớ buổi sáng cuối cùng của Orel, cả thành phố kêu khóc và chạy trốn với sự hoảng loạn bao trùm. Thành phố khi đó vẫn còn nguyên vẻ đẹp, chưa có 1 ô cửa sổ nào vỡ nhưng nó tạo ra 1 ấn tượng ghê rợn giống như 1 người đã bị kết án tử ...
Lắng nghe lời 1 đại tá xe tăng, ông đang đứng trên nóc 1 chiếc xe tăng phủ đầy bụi đất nhìn xác những binh lính và sĩ quan hy sinh trong trận đánh vì Orel, nghe lời vĩnh biệt lắp bắp nhát gừng của ông vang vọng trong những căn nhà cháy, tôi đã hiểu ra. Cuộc gặp gỡ hôm nay và và cuộc chia ly đau đớn buổi sáng tháng 10/1941 đó đã hoà hợp làm 1.
Chiến sự tại cánh nam vòng cung Kursk đã dẫn tới việc tái chiếm Belgorod và cả Kharkov ngày 28/8. Người Đức gọi trận đánh này là Trận Kharkov lần thứ tư, như thế đủ hiểu chỉ còn rất ít nhà cửa công trình của thành phố còn sót lại. Khi các trận đánh tại cánh bên kia (cánh nam) của vòng cung Kursk đang diễn ra, Grossman viết cho cha hôm 28/7.
Cha kính yêu, con đã đi qua biết bao nhiêu con đường trong 3 tuần vừa qua, y hệt như 1 người Di gan. Đi vào mùa hè thế này thì tốt hơn đi vào mùa đông nhiều, ko còn phải lo lắng về việc tìm chỗ ngủ, mặt trời rực rỡ, ngay cả mưa cũng vẫn ấm, những đồng cỏ phủ đầy hoa sặc sỡ. Nhưng thường là những đồng cỏ đó ko có mùi thơm của hoa mà là 1 thứ mùi khác, đáng sợ.
Grossman bắt đầu tin rằng còn có 1 thứ mùi đáng sợ khác nữa đang bao phủ khắp Liên Xô - sự trỗi dạy của chủ nghĩa bài Do Thái. Ilya Ehrenburg với khả năng thính nhạy về các vấn đề Ctrị đã cảm nhận được điều đó trước anh chàng Grossman duy tâm. Từ đầu chiến tranh Ehrenburg đã được biết về phản hồi của Kremlin với Henry Shapiro, lãnh đạo văn phòng đại diện Reuter tại Moscow. Ehrenburg đã biết Shapiro từ trước chiến tranh, nói chuyện với ông ta nhiều lần tại khách sạn Metropol và Moskva để chia sẻ về tình yêu đối với Paris. Shapiro đã cho Ehrenburg biết 1 điều rằng trong khi Stalin sẵn sàng nói chuyện với Henry Cassidy của hãng Associated Press (AP), nhà lãnh đạo này lại ko bao giờ nhận lời với ông. "Với cái tên của anh," Ehrenburg trả lời, "anh sẽ ko bao giờ có được 1 câu trả lời."
Tháng 11/1941, Ehrenburg đã nghe được giọng điệu bài Do Thái của Mikhail Sholokhov, tác giả cuốn Sông Đông êm đềm. (*) "Các anh đang chiến đấu," Sholokhov nói với Ehrenburg, "nhưng Abram thì đang làm ăn tại Tashkent." Ehrenburg tức điên và gọi Sholokhov là "đồ con buôn tàn sát người Do Thái". Grossman khi nghe được chuyện đó đã viết thư gửi Ehrenburg kể về tất cả những người lính Do Thái ông gặp tại mặt trận.
Tôi nghĩ về lời vu khống mang tính bài Do Thái của Sholokhov với 1 sự chua xót và khinh bỉ. Nơi đây tại Phương diện quân Đông Nam này có hàng ngàn, hàng vạn người Do Thái. Họ hành quân bộ với súng máy nặng vai dưới bão tuyết, xung phong vào các khu dân cư bọn Đức đang chiếm giữ, ngã xuống trong chiến đấu. Tôi đã nhìn thấy tất cả họ, tôi đã nhìn thấy Kogan, vị chỉ huy lẫy lừng của Sư đoàn 1 Cận vệ, nhìn thấy những sĩ quan xe tăng và những lính trinh sát. Nếu Sholokhov ở Kuibyshev, hãy để anh ta biết rằng các đồng chí tại mặt trận biết những gì anh ta nói, cho anh ta biết thế nào là xấu mặt.
Nhưng rõ ràng là Grossman chỉ coi là Sholokhov đã có 1 phút lầm lạc khi đó.
Đầu năm 1943, Ehrenburg phát hiện ra rằng những bài viết của ông liên quan tới các nạn nhân Do Thái đã bị kiểm duyệt. Ông phàn nàn với Aleksandr Shcherbakov, lãnh đạo Tổng Cục Ctrị Hồng quân, nhưng bị Shcherbakov vặn lại: "Binh lính muốn nghe về Suvorov nhưng anh toàn trích dẫn Heine."
Ehrenburg và Grossman trước đây đã từng bất đồng sâu sắc trong các vấn đề văn học giờ lại thành gần gũi với nhau. "Vasily Semyonovich Grossman về Moscow trong thời gian ngắn," Ehrenburg viết, "và chúng tôi ngồi với nhau đến tận 3h sáng. Cậu ta kể cho tôi về mặt trận, và chúng tôi đồn đoán cuộc sống sẽ ra sao sau chiến thắng. Grossman bảo: "Giờ tôi có rất nhiều nghi ngờ, nhưng tôi ko nghi ngờ gì về chiến thắng, đó chắc chắn là điều quan trọng nhất.""
Nhờ sự thúc giục của Ehrenburg, Grossman đã gia nhập Uỷ ban Do Thái chống phát xít, 1 trong những thành viên đứng đầu của nó là diễn viên Solomon Mikhoels. (**) Cuối năm 1942, Albert Einstein và 1 số thành viên khác của Uỷ hội các nhà văn, nghệ sĩ và nhà khoa học Do Thái tại Mỹ đã đặt quan hệ với Uỷ ban Do Thái chống phát xít Liên Xô để đề nghị Uỷ ban này lập 1 báo cáo về tội ác của bọn Nazi. Mikhoels đã rất nhiệt tình với đề xuất này và ban đầu nó được nhà cầm quyền Soviet chấp thuận, do đó Ehrenburg bắt đầu tổ chức 1 nhóm nhà văn. Mùa thu năm 1943 ông thu nạp Grossman vào nhóm. Grossman, người đã nhìn thấy những nơi mới giải phóng khỏi ách phát xít nhiều hơn bất kỳ ai khác, đã đóng góp những bằng chứng quan trọng nhất. Cuối năm 1944, Ehrenburg đã cảm nhận rất chính xác rằng nhà cầm quyền Stalinist đang ngăn chặn công việc của mình và tỏ ra thất vọng. Ông bỏ Uỷ ban Do Thái chống phát xít. Grossman, nhân chứng số 1 về các tội ác tại Majdanek và Treblinka, đã từ chối bỏ ngang và vẫn tiếp tục công việc.
(*) Mikhail Aleksandrovich Sholokhov (1905 - 1984), giành giải thưởng Stalin năm 1941 và giải Nobel năm 1965. Ông đã bị Solzhenitsyn và 1 số người khác tố cáo là đạo văn của Fyodor Krukov, 1 nhà văn cô dắc chống Bolshevik, tuy nhiên các nghiên cứu sau này đã xác nhận rằng các tác phẩm văn học của Sholokhov đều là do tự ông viết ra.
(**) Solomon Mikhoels, tên khai sinh là Solomon Vovsi (1890 - 1948), người sáng lập Nhà hát Do Thái Quốc gia Moscow, lãnh đạo Uỷ ban Do Thái chống phát xít, bị KGB ám sát tại Minsk.
PHẦN BỐN
TỪ DNEPR ĐẾN VISTULA
1944
HAI MỐT
VÙNG ĐẤT CHẾT BERDICHEV
Sau chiến thắng Kursk, Stalin và các nguyên soái của ông mở cuộc tổng tấn công trong suốt nửa cuối mùa hè năm 1943 với hy vọng đẩy người Đức về tuyến sông Dnepr. Hitler mới đầu chấp nhận sự cần thiết phải rút lui và đồng ý sông Dnepr với bờ tây cao hơn hẳn là tuyến phỏng thủ tốt nhất. Bỏ lại sau lưng những vùng đất bị tàn phá trơ trụi, các đơn vị Đức chạy đua với Hồng quân cũng đang kiệt sức và trải rộng quá mức. Smolensk được tái chiếm cuối tháng 9 và Kiev được giải phóng vào ngày 6/11. Trên bước đường tiến công này, Grossman đi theo sở chỉ huy Sư 95 Bộ binh của tướng Gorishny, đơn vị đã từng chiến đấu tại Stalingrad. (*)
Báo cáo. 1 cô gái thuộc tiểu đoàn quân y tên là Galya Chabannaya đã hi sinh. Cả Gorishny và sư đoàn phó, đại tá Vlasenko, đều khóc rống lên. (**) "Ôi, Chúa ơi," Gorishny nói. "Khi chúng tôi rời Stalingrad sau chiến thắng, chúng tôi đã nhảy ra khỏi toa tàu ở mỗi ga và nhặt tuyết ném nhau. Tôi còn nhớ chúng tôi đã lăn tròn cô bé trên tuyết như thế nào, và cô ấy cười to đến mức cả đoàn tàu đều nghe tiếng. Ko ai trong toàn sư đoàn cười to và thoải mái như cô ấy."
Tiểu đoàn phó, trung uý Surkov, trở về sở chỉ huy. Anh ta đã ko ngủ 6 đêm liền, râu ria lởm chởm đầy mặt, ai cũng có thể thấy vẻ mệt mỏi của anh nhưng anh vẫn còn rất hăng máu. Độ nửa tiếng nữa anh sẽ lăn ra ngủ gối đầu lên ba lô và sẽ chẳng ai đánh thức anh dậy nổi, nhưng bây giờ mắt anh đang bừng sáng và giọng nói chát chúa đầy kích động. Anh chàng này trước chiến tranh từng là 1 giáo viên dạy sử, nay có vẻ như mang trong mình toàn bộ sức nóng của trận chiến Dnepr. Anh kể cho tôi về những cuộc phản công của bọn Đức, về những cuộc tấn công của quân ta, về tay giao liên mà anh đã phải moi lên khỏi hào 3 lần vốn 1 anh lính cùng quê và từng là học sinh của anh. Surkov từng dạy anh lính này lịch sử, giờ cả 2 đã trở thành 1 phần của sự kiện lịch sử sẽ được các giáo viên dạy cho học sinh hàng trăm năm sau.
Khi tới bờ sông Dnepr, những người lính ko muốn chờ phà hay những phương tiện vượt sông khác tới. Họ vượt dòng sông rộng chảy siết bằng bè, bằng thuyền câu, bằng phao kết từ thùng phi và gỗ súc. Họ vượt sông dưới làn đạn pháo và súng cối dữ dội của quân thù, dưới những đợt oanh tạc của máy bay ném bom và cường kích địch. Có những trường hợp binh lính chuyển được cả pháo cấp trung đoàn qua sông và những trường hợp cả nhóm lính Hồng quân vượt sông bằng những tấm mảng kết từ lau sậy.
Giải phóng Ukraina là 1 chặng đường xúc động, đặc biệt là với những người đã từng trải qua nỗi đau mùa hè năm 1941 như Grossman.
Những cụ già khi nghe thấy những người lính nói tiếng Nga đã lặng lẽ khóc, ko thốt lên nổi 1 lời. 1 bà cụ nông dân nói khẽ trong ngạc nhiên: "Chúng tôi đã nghĩ khi gặp được quân ta chúng tôi sẽ hát và cười, nhưng đã có quá nhiều nỗi đau chất chứa trong tim khiến nước mắt cứ trào ra."
Khi quân ta tiến vào 1 ngôi làng trong tiếng đại bác chỉ có lũ ngỗng chạy ra, đập cánh bay lên các mái nhà. Người dân sau đó mới ló ra từ những khu rừng, từ các đống cỏ khô, từ trong những đám lau sậy.
Mỗi người lính, mỗi sỹ quan, mỗi vị tướng Hồng quân đều đã được thấy Ukraina chìm trong máu và lửa, đều đã được nghe những câu chuyện có thật xảy ra tại Ukraina trong 2 năm sống dưới ách phát xít, đều hiểu tận đáy lòng rằng những người dân chỉ có 2 từ thiêng liêng để nói với họ. Từ thứ nhất là "tình yêu" và từ còn lại là "trả thù".
Tại những ngôi làng này, bọn Đức thường phóng uế ngay trên đồi hoặc trên bậc cửa ra vào, ngay trước những khu vườn hay cửa sổ mà chẳng thèm xấu hổ trước các bà các cô. Khi ăn uống chúng gây ồn ào, cười nói hô hố, thò tay vào đĩa của người khác và xé thịt bằng những ngón tay. Chúng trần truồng mà đi quanh các ngôi nhà, ko hề tỏ ra ngượng ngùng trước mặt những người nông dân, đánh chửi nhau vì đủ thứ vớ vẩn. Chúng phàm ăn, chúng có thể xơi 20 quả trứng 1 lúc, hay cả 1 kg đường, hay cả 1 bát lớn smetana (váng sữa). Chúng trêu trọc và coi khinh những người nông dân ...
Bọn Đức tụ tập ở cuối làng, chúng mò tìm thức ăn từ sáng đến đêm. Chúng ăn, uống rượu và chơi bài. Theo những gì các tù binh kể lại và những gì được viết trong các bức thư lấy được trên xác bọn Đức, chúng tự coi mình là đại diện của 1 chủng tộc thượng đẳng bị buộc phải sống trong những ngôi làng mọi rợ. Chúng nghĩ rằng mỗi bước đi xa hơn về phía đông là có thể quẳng bớt đi thêm 1 chút văn hoá. "Ôi, đấy mới thật là văn minh chứ," tôi đã nghe nhiều người nói vậy. "Vậy mà chúng tôi đã từng nghĩ người Đức là 1 dân tộc có học thức."
(*) Sư 95 Bộ binh sau này trở thành Sư 75 Bộ binh Cận vệ.
(**) Thiếu tướng (sau này là trung tướng) Vasily A. Gorishny (1903 - 1962) và đại tá (sau này là thiếu tướng) Aleksei M. Vlasenko.
1 buổi sáng trời u ám và có gió, chúng tôi gặp 1 cậu bé bên rìa làng Tarasevichi, gần sông Dnepr. Chú bé độ 13 - 14 tuổi, cực kỳ gầy, lớp da vàng bủng dính trên gò má, 1 cục u sưng phồng trên đầu, đôi môi khô nẻ tái xám vừa giống người chết vừa giống người vừa bị ngã đập mặt xuống đất. Đôi mắt cậu bé đầy vẻ mệt mỏi, chẳng vui cũng chẳng buồn mà chỉ có vẻ vô cùng sợ sệt. 1 đôi mắt trẻ em đờ đẫn, vô hồn và mệt mỏi.
"Cha em đâu?"
"Chết rồi," cậu bé trả lời.
"Còn mẹ em?"
"Cũng chết rồi."
"Em có anh chị em nào ko?"
"1 chị, bị bắt sang Đức rồi."
"Em còn người thân thích nào ko?"
"Ko, họ bị thiêu chết hết cả làng vì theo du kích rồi."
Rồi cậu bé bước vào 1 ruộng khoai tây, đôi chân trần đen nhẻm vì bùn, dáng liêu xiêu như 1 con bù nhìn khoác chiếc sơmi rách tả tơi.
Ko lâu sau Grossman còn nghe được những chuyện ghê rợn hơn nhiều mà bọn Đức đã làm tại các vùng tạm chiếm.
Những người trở về từ Kiev cho tôi biết bọn Đức đã lập 1 vòng lính vây quanh 1 nấm mộ tập thể khổng lồ chôn xác 50.000 người Do Thái bị giết tại Kiev mùa thu năm 1941. Chúng đã đào vội những cái xác lên, chất lên xe tải chở về phía tây. Chúng đã thử đốt 1 số xác ngay tại chỗ.
Theo lời Grossman, ngay từ trước khi Kiev thất thủ đã bắt đầu xuất hiện 1 số báo cáo về việc tàn sát người Do Thái, 1 Gross - Aktion (việc lớn) được thực hiện bởi SS Sonderkommanko, đơn vị thành lập từ Einsatzgruppe C (Đội đặc nhiệm C, SS có 4 đội như vậy) và 2 tiểu đoàn quân cảnh. Chúng bố trí tại Babi Yar cuối tháng 9/1941. Việc bố ráp người Do Thái tại Kiev được bọn SS tổ chức, lấy người từ các sĩ quan tham mưu và sở chỉ huy Tập đoàn quân 6, sau đó do Thống chế phát xít Von Reichenau chỉ huy.
Kế hoạch hành động để thực hiện Gross - Aktion này bắt đầu vào ngày 27/9/1941. Quân đồn trú tại các khu dân cư dán poster lệnh cho người Do Thái tại Kiev chuẩn bị "di tản". Đây vốn chỉ được xem là 1 phép thử thận trọng che dấu số phận dành cho người Do Thái. "Bạn hãy mang theo chứng minh thư, tiền và tài sản cũng như quần áo ấm," chúng nói vậy. Những người Do Thái Soviet chưa từng nghe nói đến chủ nghĩa bài Do Thái Nazi, 1 phần cũng do tin vào Hiệp ước Xô Đức, đã tập hợp theo lệnh với ý tưởng rất mù mờ về số phận đang chờ đợi họ. Bọn SS Sonderkommando, vốn tưởng rằng sẽ chỉ có độ 5 - 6.000 người tập trung, đã rất ngạc nhiên khi có tới 33.771 người Do Thái xuất hiện, chiếm hơn phân nửa dân Do Thái Kiev. Đám đông quá lớn khiến chúng phải điều thêm lính của Tập đoàn quân 6 tới giúp đỡ vận chuyển người Do Thái tới hẻm núi Babi Yar, nơi các nhóm sát thủ đang chờ bên miệng vực.
Người Do Thái Kiev trước hết bị buộc phải giao nộp hết tài sản, sau đó cởi hết quần áo rồi bị bắn. Cuộc tàn sát tại đây kéo dài 2 ngày. Nơi này sau đó còn được dùng cho nhiều cuộc tàn sát khác đối với người Do thái, người Digan, du kích và các Đảng viên CS. Tổng cộng khoảng 100.000 người đã chết tại đây. Các báo cáo phỏng vấn thường dân Soviet đã vượt qua chiến tuyến tháng 10/1943 cho biết bọn Đức đã lập vành đai bao quanh khu vực này để cố phi tang dấu vết của các cuộc thảm sát bằng cách đốt những xác chết đang thối rữa.
Grossman đi theo sở chỉ huy Phương diện quân Ukraina 1 của tướng Vatutin và đã được nghe về các báo cáo này. Nỗi lo sợ của ông về số phận người Do Thái Ukraina đã được chứng minh là còn ghê gớm hơn. Mức độ thảm sát khiến ông chết lặng. Mùa thu năm 1943 ông đã viết 1 bài mang tựa đề "Ukraina ko có người Do Thái", bài viết đã bị tờ Krasnaya Zvezda từ chối nhưng được đăng trên tờ Einikeit, tờ báo của Uỷ ban Do Thái chống phát xít.
Ko còn 1 người Do Thái nào ở Ukraina. Poltava, Kharkov, Kremenchug, Borispol, Yagotin – ko 1 nơi nào. Ko ở đâu trong các thành phố đó và hàng trăm đô thị, hàng nghìn làng mạc khác bạn còn nhìn thấy những đôi mắt đen đẫm nước mắt của những cô gái nhỏ; còn nghe thấy tiếng kêu sợ hãi của các bà cụ già; bạn cũng ko còn thấy những gương mặt u ám của những đứa trẻ đang đói. Tất cả chỉ còn là sự im lặng. Mọi thứ vẫn còn đây nhưng tất cả họ đã bị thảm sát 1 cách tàn bạo.
Vấn đề sớm trở nên rõ ràng với Grossman khi những bản báo cáo của ông về nạn thảm sát người Do Thái (sau này được gọi là Holocaust) ko được giới chức Soviet chào đón. Tư tưởng Stalinist ko chấp nhận bất kỳ 1 loại nạn nhân đặc biệt nào, mọi nạn nhân của chủ nghĩa phát xít trên đất Soviet đều chỉ được xem là "công dân Liên Xô" mà ko có sự phân loại. Các báo cáo chính thức về những việc làm tàn bạo này, kể cả các báo cáo mô tả các xác chết đều đeo ngôi sao Do Thái, bị cấm nhắc tới từ "Do Thái". Cuối năm 1943, Grossman tham gia nhóm của Ilya Ehrenburg có nhiệm vụ thu thập các bằng chứng chi tiết về tội ác của quân Đức cho Uỷ ban người Do Thái chống phát xít, 1 tổ chức sau này bị giới chức Stalinist nghi ngờ. Ehrenburg và Grossman dự định xuất bản 1 cuốn "Sách Đen" tập hợp tất cả các chứng cứ thu thập được nhưng nó đã bị tịch thu sau chiến tranh, 1 phần vì quan điểm Stalinist về những nạn nhân Soviet là "Ko được phân biệt những người đã chết" và 1 phần vì sự dính líu của dân Ukraina vào hoạt động tàn sát người Do Thái làm nhà cầm quyền lúng túng. Đề tài về những người hợp tác với địch trong cuộc Chiến tranh Vệ quốc Vĩ đại gần như bị ém nhẹm hoàn toàn cho đến tận sau khi chế độ CS sụp đổ.
Grossman quyết tâm nêu bật những bi kịch của con người trong tội ác lớn lao này. 1 cách bản năng, ông cảm thấy ghê sợ trước mức độ mất nhân tính và số lượng nạn nhân. Vì vậy ông bao giờ cũng tìm kiếm tên họ và các chi tiết cá nhân để cá biệt hoá vấn đề.
Ko 1 ai thoát được khỏi Kazary để tố cáo, để nói, để khóc. Sự im lặng bao trùm lên những thân xác chôn vùi dưới những căn nhà cháy giờ đã mọc đầy lau lách. Sự im lặng còn đáng sợ hơn cả nước mắt và những lời nguyền rủa.
Người già và phụ nữ đều đã chết, kể cả những người có chuyên môn: thợ cạo, thợ giày, thợ nguội, thợ kim hoàn, thợ sơn, thợ rèn, thợ in, công nhân, người giao hàng, thợ mộc, thợ lò, diễn viên hài, người làm đồ mỹ nghệ, người gánh nước, người xay bột, thợ làm bánh và đầu bếp; người chết còn là bác sĩ, thày tế, bác sĩ giải phẫu, bác sĩ phụ khoa, nhà khoa học - vi khuẩn học, sinh hoá học, hiệu trưởng trường đại học y khoa - giáo viên sử học, đại số, lượng giác. Người chết cũng là giáo sư, giảng viên đại học, nhà nghiên cứu khoa học, kỹ sư, kiến trúc sư. Người chết là nhà nông học, công nhân nông trường, kế toán, văn thư, bán hàng, đại lý cung tiêu, thư ký, gác đêm, người chết là giáo viên, người chết là các bà cụ vẫn đan bít tất và làm những chiếc bánh nhân nho ngon lành, nấu canh thịt và làm bánh ngọt bằng táo và hạnh nhân; người chết là những phụ nữ chung thuỷ lẫn đàng điếm, tất cả đều chết, các cô gái xinh đẹp, các cậu sinh viên và các cô bé học sinh vui nhộn, cả các cô gái xấu xí ngu độn và những bà gù cũng chết, người chết là ca sĩ, người chết là kẻ đui mù hay câm điếc, người chết là nghệ sĩ violon hay piano, người chết là những em bé 2 - 3 tuổi, người chết là cụ ông 80 tuổi và cụ bà mắt đã mờ đục, với những ngón tay lạnh giá và mái tóc bạc trắng; người chết là những em bé mới sinh vẫn còn sục tìm vú mẹ cho đến giờ phút cuối cùng.
Những cái chết trong chiến tranh này khác với những người chết với vũ khí trong tay, những người trước khi chết đã lên đường đi chiến đấu bỏ lại sau lưng nhà cửa, gia đình, ruộng đồng, âm nhạc, phong tục và những câu chuyện kể. Đây là những cái chết do 1 vụ tàn sát chỉ có trong những câu chuyện thời cổ đại, diễn ra cùng lúc với hàng ngàn gia đình từ ông cho tới cháu, 1 vụ tàn sát thiên cổ, tàn sát luôn cả âm nhạc, thi ca, cuộc sống, niềm hạnh phúc và sự đau khổ, nó là sự phá huỷ con tim và linh hồn, là cái chết của cả 1 dân tộc đã từng tồn tại bên những người Ukraina trong hàng trăm năm ...
Khristya Chunyak, 1 bà nông dân 40 tuổi sống ở làng Krasilovka, huyện Brovarsky ngoại thành Kiev, kể lại bọn Đức đã điệu ông bác sỹ Do Thái tên là Feldman đi hành quyết như thế nào. Vị bác sĩ này là 1 ông già độc thân đã nhận nuôi 2 đứa trẻ mồ côi, dân địa phương rất yêu quý ông. Cả 1 đám đông phụ nữ nông dân đã tới đồn lính Đức kêu khóc xin cho Feldman được sống. Tên sĩ quan chỉ huy cuối cùng lùi bước trước những lời cầu khẩn của cánh phụ nữ, đó là vào mùa thu năm 1941. Feldman được sống và tiếp tục ở lại chữa bệnh cho những người nông dân địa phương nhưng cuối cùng vẫn bị hành quyết vào mùa xuân vừa qua. Khristya Chunyak thút thít rồi cuối cùng oà khóc khi kể cho tôi nghe đến đoạn ông cụ bác sĩ đã bị buộc phải tự đào huyệt cho mình như thế nào. Ông phải chết 1 mình vì chẳng còn người Do Thái nào còn sống đến mùa xuân năm 1943.
Các tập đoàn quân của tướng Vatutin đã thiết lập được nhiều đầu cầu bên kia sông Dnepr sau đó phát triển về phía nam Kiev hướng về Berdichev, quê hương Grossman. Thống chế Von Manstein phản công liên tiếp trong suốt tháng 12, cố gắng đẩy bật Vatutin về bờ phải nhưng vào ngày Lễ Giáng sinh ông ta đã phải ngạc nhiên khi người Nga đã nguỵ trang rất tốt rồi mở 1 cuộc tấn công gần Brusilov.
Đầu năm 1944, các lãnh đạo Wehrmacht đối mặt với sự thật đau đớn rằng mặc dù phải chịu rất nhiều thương vong, Hồng quân đã trở thành 1 bộ máy chiến tranh ghê gớm chỉ sau có hơn 1 năm. Các sư đoàn Đức bị hao hụt nặng nề và các tân binh mới bổ sung chưa được huấn luyện đầy đủ. Các sư đoàn thiết giáp đã ko thể có lại sức mạnh như trước kể từ sau trận Kursk, trong khi đó lực lượng thiết giáp Soviet vẫn được cung cấp liên tục những chiếc xe tăng mới từ vùng công nghiệp khổng lồ Chelyabinsk và xa hơn nữa là Ural. Các đơn vị Hồng quân cũng được tăng cường mạnh mẽ khả năng cơ động nhờ những chuyến hàng chở xe tải Dodge và Studebaker vẫn đều đặn đến từ nước Mỹ. Hồng quân đã có thể tiến rất nhanh qua vùng Trung Âu nhờ sự giúp đỡ to lớn của người Mỹ, điều này mỉa mai thay đã ko được các sử gia Nga thừa nhận.
Trong cuộc tấn công mùa đông bắt đầu vào cuối tháng 12/1943, Hồng quân đã tấn công về phía Bắc đẩy quân Đức về phía Leningrad. Tại phía nam, 4 phương diện quân Ukraina cùng mở đợt tấn công từ Kiev tới tận Biển Đen. Công việc của Vatutin tại Phương diện quân Ukraina 1 là ngày 24/12 mở cuộc tấn công từ 1 đầu cầu nằm sát Kiev về phía nam, quân của ông chiếm được Zitomir vào ngày 1/1. Kazatin cách đó 70km về phía nam cũng được chiếm lại và thị trấn Berdichev nằm giữa 2 nơi đó cuối cùng đã sạch bóng quân thù ngày 5/1/1944 sau 1 trận ác chiến với sự tham gia của Tập đoàn quân 18 và Tập đoàn quân Xe tăng 1.
Grossman có lý do rất riêng để được có mặt tại Ukraina. Ông nhất định phải tìm ra điều gì đã xảy ra tại Berdichev, nơi ông sợ rằng mẹ mình và những người thân đã bị tàn sát. Ông viết cho vợ ngay khi đến gần Berdichev.
Lyusenka yêu quý nhất của anh, hôm nay anh sẽ tới nơi cần tới vì mai anh phải đi Kiev. Thật khó diễn tả những gì anh đã cảm nhận và trải qua trong mấy tiếng đồng hồ đi qua những nơi quen thuộc. Chỉ có toàn những ngôi mộ và xác chết. Anh sẽ tới Berdichev trong hôm nay. Các đồng đội của anh đã ở đó, họ nói thị trấn hoàn toàn vắng lặng, có lẽ chỉ còn độ mươi người sống sót trong số hàng ngàn hàng vạn người Do Thái đã từng sống ở đây. Anh ko hy vọng tìm thấy mẹ còn sống. Điều duy nhất anh mong là biết được về những giờ phút cuối cùng và về cái chết của bà ... Ở đây anh đã hiểu thế nào là tình thân giữa 1 nhúm người sống sót.
Ông cũng viết thư cho cha, chắc là trong cùng 1 ngày tháng 1 đó, để kể về cái chết của 1 người bạn tại Kiev.
Con sẽ đi Berdichev hôm nay. Người ta nói toàn bộ dân Do Thái đã bị giết hết, thị trấn gần như bị phá huỷ hoàn toàn và ko còn ai. Ôm hôn cha, người con yêu quý. Con đang có những cảm xúc thật là mãnh liệt. Vasya của cha.
Grossman đã tới bãi hành quyết nằm trên 1 khu đất trống và khu vực mà dân Do Thái ở Berdichev đã bị tập trung vào đó. Ông hỏi han những nhân chứng 1 cách ko mệt mỏi, cả số ít người Do Thái sống sót và những người Ukraina địa phương. Với ông, điều gây shock nhất là ông phát hiện ra dân Ukraina địa phương đã đóng vai trò quan trọng trong tấn thảm kịch này. Nhiều người đã được nhà cầm quyền Đức tuyển vào lực lượng cảnh sát địa phương, phát súng, đồng phục gồm mũ lưỡi trai và băng tay trắng. Chúng khuyến khích họ hành hạ người Do Thái, sau đó hỗ trợ chúng bố ráp và hành quyết họ.
Grossman khi còn trẻ đã được dạy là nên tránh tiếp xúc với những người Do Thái tại Berdichev nên giờ ông cảm thấy nặng nề gấp đôi vì tội lỗi này. Trong số hơn 60.000 dân cư Berdichev có hơn 30.000 người Do Thái, khoảng 20 - 30.000 người trong số đó đã bị giết ngay trong cuộc tàn sát quy mô lớn đầu tiên tại Ukraina. Grossman thừa nhận nhiều người Ukraina làm vậy là để trả thù chính sách đàn áp và nạn đói những năm 20 - 30 mà những người Stalinist đã gây nên và đẩy người Do Thái ra làm vật tế thần. Họ cũng ko hề hổ thẹn với việc cướp bóc tài sản của dân Do Thái trong thị trấn. Tuy nhiên Grossman cũng ghi nhận 1 thực tế là hầu hết những người Do Thái còn sống sót đều là nhờ được những người Nga hoặc Ukraina bảo bọc. Những ghi chép từ những cuộc phỏng vấn này đã được ông đưa vào cuốn Sách Đen.
Khoảng 30.000 người Do Thái đã bị giết tại Berdichev. 2 anh em nhà Pekilis, Mikhel và Wulf, sống sót. Nhiều người dân thị trấn quen biết gia đình Pekilis, họ là những thợ xây đá nổi tiếng, gồm cha và 5 con trai. Họ đã xây nhà cửa ở Berdichev, xây nhà máy ở Kiev và thậm chí đã tham gia xây dựng 1 số công trình ngầm ở Moscow. Khi bọn Đức tới, Mikhel và Wulf thoát được. 2 anh em đang xây 1 cái bếp lò đẹp cho 1 gia đình nông dân và đã trốn luôn trong bếp, sau đó họ đào 1 cái lỗ dưới 1 công trình của người Đức trên phố Sverdlovskaya và ngồi trong đó suốt 145 ngày. 1 kỹ sư người Nga tên là Evgeny Osipovich đã tiếp tế cho họ. Sau đó họ trốn ra trong 1 chiếc quan tài và tìm gặp du kích, Mikhel và Wulf Pekilis đã tham gia vào trận đánh giải phóng Berdichev.
1 đứa trẻ Berdichev nói: "Người ta gọi tôi là Mitya Ostapchuk nhưng tên thật của tôi là Khaim Roitman. Tôi là người Berdichev, năm nay 13 tuổi. Bọn Đức đã giết cả bố lẫn mẹ tôi. Tôi có 1 đứa em trai tên là Borya, 1 tên Đức đã giết nó bằng tiểu liên ngay trước mặt tôi ... Cảm giác lúc đó thật kỳ lạ, mặt đất như chuyển động! Tôi đã đứng bên miệng hố chờ đợi bọn chúng bắn tôi (tôi nghĩ thế). 1 tên Đức lại gần tôi, nghiêng người xem xét. Tôi chỉ tay: "Nhìn đi, đằng kia có 1 cái đồng hồ!" Thực ra ở đó chỉ có 1 mảnh kính đang lấp lánh sáng. Tên Đức đi lại phía đó để nhặt và tôi vùng chạy nhanh nhất có thể. Hắn chạy đuổi theo tôi và bắn, viên đạn xuyên thủng 1 lỗ trên mũ. Tôi cứ thế chạy và chạy rồi cuối cùng vấp ngã. Tôi ko nhớ điều gì xảy ra tiếp theo cho tới khi 1 ông cụ, Gerasim Prokofievich Ostapchuk, nâng tôi dậy và nói: "Giờ cháu là Mitya, con trai ta." Ông ấy đã có 7 đứa con, tôi trở thành đứa thứ 8.
"1 lần có mấy tên Đức đến, tất cả chúng đều đang xỉn. Chúng bắt đầu quát lác khi phát hiện ra tôi có màu da sẫm hơn. Chúng hỏi Gerasim Prokofievich: "Thằng này con ai?" Và ông trả lời: "Con tôi." Chúng nạt ông, bảo ông nói láo vì da tôi có màu sẫm, và biết ko, ông đã trả lời cực kỳ bình tĩnh: "Nó là con tôi với bà vợ trước. Bà ấy là người Di gan."
"Khi Berdichev được giải phóng, tôi trở về thị trấn. Tôi gặp anh trai Yasha, anh ấy cũng còn sống. Yasha là người cao lớn, anh ấy 16 tuổi và tham gia chiến đấu. Khi bọn Đức tháo lui, Yasha đã tìm ra thằng con lợn đã giết mẹ tôi và bắn chết hắn."
Bài viết "Cuộc tàn sát người Do Thái ở Berdichev" của Grossman đã bị nhà cầm quyền Soviet kiểm duyệt vì 2 lý do, 1 là họ ko muốn nhấn mạnh nguồn gốc Do Thái của các nạn nhân và 2 là họ muốn che giấu sự hợp tác của những người Ukraina trong tội ác này.
Bọn Đức đã thình lình đánh chiếm Berdichev. Các đơn vị xe tăng Đức lao xuyên qua thị trấn. Chỉ có 1/3 dân cư chạy kịp vào lúc đó. Quân Đức tiến vào thị trấn vào 7h tối thứ 2, ngày 7/7/1941. Những tên lính ngồi trên xe tải hô to: "Jude kaputt!" (Bọn Do Thái phải chết) và vẫy vẫy tay. Chúng biết rằng phần lớn dẫn Do Thái vẫn còn ở trong thị trấn.
Thợ mộc Girsh Giterman đã trốn khỏi Berdichev vào ngày thứ 6 kể từ cuộc chiếm đóng kể về những tội ác đầu tiên của bọn Đức gây ra với người Do Thái. Lính Đức buộc nhiều người ra khỏi căn hộ của họ ở các phố Bolshaya Zhitomirskaya, Malaya Zhitomirskaya và Shteinovskaya, những con phố nằm gần 1 nhà máy sản xuất đồ da. Mọi người sau đó bị đưa vào đội thuộc da của nhà máy và bị buộc phải nhảy trong những hố khổng lồ chứa đầy catechu (*) để làm se da. Những người chống cự đều bị bắn và xác họ cũng bị ném luôn xuống hố. Bọn Đức nghĩ rằng việc hành quyết này sẽ rất vui nhộn: chúng đang thuộc da dân Do Thái.
1 cuộc tàn sát như thế này đã được tiến hành trong khu phố cổ: bọn Đức lệnh cho các cụ ông trùm tallit và mang tefillin (**) tập trung tại giáo đường cổ của dân Do Thái để cầu xin Chúa tha thứ vì tội chống lại người Đức. Sau đó chúng khoá cửa giáo đường rồi châm lửa đốt. Vụ tàn sát thứ 3 được tiến hành gần 1 cối xay chạy bằng sức nước. Chúng bắt vài chục phụ nữ, lệnh cho họ cởi quần áo rồi thông báo với họ ai bơi được sang bờ bên kia sẽ được sống. Đoạn sông này rất rộng vì bị 1 con đập ngăn lại, vì vậy hầu hết số phụ nữ đã chết đuối trước khi sang được bờ bên kia. Những người bơi được sang bờ tây lập tức bị bắt bơi quay trở lại và chết đuối hết.
1 thí dụ khác về "thú vui" Đức là câu chuyện về cái chết của 1 cụ già. Tên ông là Aron Mazor, người chuyên tẩy uế xúc vật rồi làm thịt chúng (theo phong tục của người Do Thái xúc vật phải được tẩy uế rồi mới giết thịt ăn - Maseo). 1 tên sĩ quan Đức chiếm căn hộ của Mazor và lệnh cho bọn lính mang những đồ đạc mà Mazor chọn ra, bản thân hắn đứng đằng sau cùng 2 tên lính để xem cho vui. Khi nhìn thấy con dao lớn của Mazor và biết được nghề nghiệp của ông, hắn nói: "Cho tao xem mày làm việc thế nào," và lệnh cho lính lôi đến 3 đứa trẻ con nhà hàng xóm.
Hàng nghìn hàng vạn con người đó đã ko thể hiểu nổi sự thật trần trụi và khủng khiếp này, rằng chính quyền ủng hộ và tán thành những vụ tàn sát "ko cần phê chuẩn", rằng người Do Thái bị đặt ngoài vòng pháp luật và là đối tượng tự nhiên nhất cho việc tra tấn, bạo hành và giết chóc. Tuy nhiên, ko 1 ai trong số những người bị đưa vào các khu tập trung dân Do Thái có thể tưởng tượng được rằng đây chỉ là bước đầu tiên dẫn tới cuộc tàn sát đã được chuẩn bị kỹ càng cho toàn bộ 20.000 người Do Thái. (***)
1 kế toán viên người Berdichev đã đến thăm gia đình người bạn là kỹ sư Nuzhny trong khu tập trung đã kể cho tôi nghe vợ Nuzhny đã khóc lóc và lo lắng đến thế nào khi cậu con Garik 10 tuổi ko thể đi học tiếp vào mùa thu tới.
Những bác sĩ già ở Berdichev đã sống với niềm hy vọng rằng Hồng quân sẽ trở lại. Có những lúc họ an ủi nhau bằng những tin tức mà ai đó nghe được trên radio rằng chính phủ Đức đã nhận được 1 văn bản yêu cầu họ ngừng xúc phạm người Do Thái. Tuy nhiên cũng vào lúc đó những tù binh Soviet bị quân Đức bắt tại Lysaya Gora đã bắt đầu đào 5 tuyến hào sâu gần sân bay, chỗ cuối phố Gorodskaya và là nơi bắt đầu con đường lát gạch dẫn vào làng Romanovka.
(*) Catechu là 1 chất dùng cho thuộc da chiết xuất từ cây Accacia catechu.
(**) Tallit là khăn trùm đầu và Tefillin là hộp bọc da đen chứa kinh thánh cầm ở tay khi hành lễ.
(***) Sau này số lượng thực tế được xác nhận là 30.000, con số đã được nói đến từ trước đó, khi toàn bộ quy mô của cuộc tàn sát đã được làm rõ.
Ngày 4/9, 1 tuần sau khi khu tập trung Do Thái được thiết lập, 1.500 nam thanh niên được lệnh chuẩn bị dụng cụ làm nông. Đám thanh niên mang theo gói nhỏ đựng đồ ăn, tạm biệt cha mẹ ra đi. Cùng ngày toàn bộ 1.500 cậu trai đó đã bị bắn chết ở khu vực giữa Lysaya Gora và làng Khazhina. Những tên giết người đã rất khôn khéo tạo ấn tượng cho các nạn nhân rằng chẳng có gì đáng sợ và họ đã ko nghi ngờ gì về cuộc giết chóc sắp tới cho đến tận phút cuối cùng. Thậm chí chúng còn gợi ý rằng sau khi công việc hoàn thành đám thanh niên sẽ được cho phép mang 1 ít khoai tây về cho những người còn trong khu tập trung. Trong những ngày tiếp theo, những người tại khu tập trung ko hề biết gì về số phận của đám thanh niên, cuộc tàn sát đã lấy đi của họ hầu như tất cả những thanh niên trẻ, những người có khả năng chống cự lớn nhất.
Bước chuẩn bị cho công việc đã hoàn thành. Những cái hố đã đào xong ở cuối phó Brodskaya. Các đơn vị thuộc 1 trung đoàn SS đã tới Berdichev ngày 14/9 và quân cảnh trong thành phố đã được đặt trong tình trạng sẵn sàng. Toàn bộ khu vực tập trung dân Do Thái bị bao vây vào đêm 14/9. 4h sáng ngày 15/9, tín hiệu được truyền đi và bọn SS cùng quân cảnh bắt đầu lùa mọi người ra bãi chợ. Cách đối xử của chúng khiến mọi người hiểu ra giờ phút cuối cùng của họ đã đến. Những tên sát nhân giết luôn những ai ko thể đi, nhừng cụ già và người tàn tật, trong nhà. Cả thị trấn bừng tỉnh vì tiếng hét khủng khiếp của phụ nữ và tiếng khóc của trẻ con. Trong phút chốc trên bãi chợ đầy những người, hàng nghìn người.
400 người được lựa ra, bao gồm mấy vị bác sĩ già Tsugovar, Baraban, Liberman, nữ bác sĩ Blank, thợ điện Epelfeld, thợ ảnh Nuzhny, thợ giày Milmeister, ông thợ đá già Pekelis cùng 2 con trai Mikhel và Wulf, các thợ cạo, thợ giày, thợ nguội và rất nhiều thợ cắt tóc. Những người có chuyên môn này được chấp thuận cho mang theo gia đình.
Nhiều người trong số họ đã ko thể tìm thấy vợ con lạc trong đám đông. Các nhân chứng kể về cảnh tượng gây shock mà họ đã thấy: mọi người gào to tên vợ con, cố gắng gào to hơn đám đông đang hoảng loạn, hàng trăm bà mẹ khốn khổ cố gắng giữ những đứa con trong tay, trấn an chúng bằng cách nói với chúng rằng họ vẫn đây và sẽ bảo vệ chúng khỏi cái chết. "Bạn ko có cách nào tìm thấy người thân trong 1 đám đông như vậy."
Loạt tiểu liên đầu tiên vang lên, tôi ko hiểu bọn Đức làm thế để làm gì. Nơi thảm sát chỉ nằm cách con đường chừng 50 - 60m, đám đông hoảng sợ đang bị lùa đến đó, hàng người bước tới "đoạn đầu đài" và hàng ngàn cặp mắt đã nhìn thấy cái chết đang đổ ập xuống ... Mọi người bị đưa vào trong những nhà để máy bay để đợi tới lượt mình, sau đó họ bị lùa quay lại, lần này là tới chỗ chết.
Cuộc thảm sát những người vô tội và ko có khả năng kháng cự này diễn ra suốt ngày hôm đó. Máu họ chảy đầy mặt đất, những cái hố ngập đầy máu, đất ko thấm kịp, máu tràn cả ra ngoài hố thành từng vũng lớn. Máu chảy thành dòng rồi tụ lại ở những chỗ trũng ... ủng của những tên sát nhân đều đẫm máu.
Grossman ko bao giờ viết trong bất kỳ bài báo nào hoặc cuốn Sách Đen về số phận của mẹ mình. Chỉ trong cuốn tiểu thuyết Cuộc đời và Số phận, mẹ ông mới hoá thân vào nhân vật Anna Shtrum, bà là 1 trong hàng nghìn nạn nhân của cuộc thảm sát cạnh sân bay đó. Cảm giác hối hận và đau khổ của Grossman có lẽ được thể hiện rõ nhất trong 2 bức thư gửi mẹ mà ông viết sau chiến tranh. Bức thứ nhất viết năm 1950.
Mẹ kính yêu,
Con được biết về cái chết của mẹ vào mùa đông năm 1944. Con đã tới Berdichev, vào ngôi nhà mà mẹ từng sống, nơi cô Anyuta, chú David và Natasha đã đi khỏi, và con cảm nhận được rằng mẹ đã mất. Nhưng rất lâu trước đó, vào tháng 9/1941 trái tim con đã mách bảo rằng mẹ ko còn nữa. 1 đêm trên mặt trận con đã mơ thấy mình bước vào phòng mẹ. Con biết chắc đó chính là phòng mẹ, và con thấy chiếc ghế bành nơi mẹ thường ngả lưng trống rỗng, tấm khăn mẹ thường dùng để ủ chân vắt trên đó. Con cứ nhìn chăm chăm 1 lúc lâu, và khi con tỉnh giấc con biết rằng trong đời sẽ ko bao giờ còn gặp mẹ nữa. Nhưng lúc đó con ko biết cái chết khủng khiếp mà mẹ phải chịu diễn ra như thế nào, chỉ đến khi tới Berdichev, nói chuyện với những người có mặt tại cuộc thảm sát ngày 15/9/1941 đó con mới biết được phần nào. Con đã cố thử nhiều lần, hàng chục, thậm trí hàng trăm lần, tưởng tượng xem mẹ đã chết như thế nào, mẹ đã bước tới trước mặt thần chết ra sao. Con cố tưởng tượng ra kẻ đã giết mẹ, chắc hắn là người cuối cùng nhìn thấy mẹ. Con biết mẹ vẫn nghĩ tới con trong suốt thời gian đó.
Đã hơn 9 năm qua con ko viết thư cho mẹ, kể cho mẹ về cuộc sống và công việc của con. Bao nhiêu điều đã tích tụ trong tâm hồn con suốt 9 năm đó khiến giờ đây con lại viết thư cho mẹ, để kể cho mẹ, và tất nhiên, để than thở với mẹ nữa, rằng ko còn ai chia sẻ với con sự mất mát này. Mẹ là người duy nhất sẵn sàng làm điều đó.
Đến hôm nay con vẫn có thể cảm thấy như mẹ vẫn còn sống bên con, giống hệt như lần cuối cùng con gặp mẹ, giống hệt như khi đọc sách cho con nghe lúc con còn là 1 đứa trẻ. Và nỗi đau của con vẫn nguyên vẹn như cái ngày người hàng xóm ở Uchilishchnaya nói rằng mẹ đã mất. Ko có hy vọng gì tìm thấy mẹ còn sống, và con nghĩ tình yêu của con dành cho mẹ và nỗi đau ghê gớm đó sẽ ko thay đổi cho đến ngày con chết.
Ông viết lần nữa vào năm 1961 trong ngày dỗ lần thứ 20 của bà.
Mẹ thân yêu, 20 năm đã qua kể từ ngày mẹ mất. Con yêu mẹ, con nhớ mẹ từng ngày và nỗi đau đã ko bao giờ rời bỏ con suốt 20 năm đó.
Lần cuối con viết cho mẹ cách đây đã 10 năm, và hình ảnh mẹ vẫn ghi khắc trong tim con ko hề thay đổi giống như 20 năm về trước ... Như thể mẹ đã hoà vào con vậy, con càng sống lâu thì mẹ cũng sẽ càng sống lâu theo. Và khi con chết mẹ vẫn sẽ sống trong cuốn sách con dành tặng cho riêng mẹ, với nhân vật có số phận giống y như mẹ. (*) Và hình như giờ đây tình yêu của con dành cho mẹ còn lớn hơn vì chưa có gì rời khỏi trái tim con kể từ lúc mẹ còn sống. Con đã nhớ về mẹ suốt 10 năm viết cuốn sách này ...
Hôm nay con đang đọc lại mấy bức thư còn giữ được trong hàng trăm bức mẹ đã viết cho con nhiều năm về trước. Con cũng đọc lại thư mẹ gửi cho bố, và hôm nay 1 lần nữa con lại khóc khi đọc thư mẹ. Con khóc khi đọc đến đoạn: "Zema, tôi cũng ko nghĩ là mình sẽ sống lâu. (**) Tôi cứ lo lắng suốt là mình sẽ mắc 1 bệnh gì đó. Tôi sợ mình sẽ bị ốm nặng trong 1 thời gian dài. Thằng con khốn khổ của chúng ta sẽ ra sao sau đó? Nó quá vất vả."
Con đã khóc khi biết mẹ dù rất cô đơn và giấc mơ duy nhất là được sống cùng với con nhưng vẫn viết cho bố: "Chắc tôi sẽ thoải mái hơn nếu anh đến sống với Vasya khi nó kiếm được 1 căn hộ. Tôi nói chuyện này lần nữa vì giờ tôi đang khoẻ và anh ko cần lo lắng về đời sống tinh thần của tôi, tôi biết bảo vệ thế giới riêng của mình trước các tác động bên ngoài." Con đã khóc trước những bức thư vì mẹ như vẫn hiện diện ở đó: đầy tình thương, sự thanh khiết, cam chịu, lương thiện, rộng lượng, tình yêu của mẹ dành cho con, sự chăm lo của mẹ dành cho mọi người, tâm hồn mẹ thật tuyệt vời. Con ko sợ gì cả vì đã có tình yêu của mẹ và vì con yêu mẹ mãi mãi.
(*) Grossman tất nhiên đang nhắc tới cuốn Cuộc đời và Số phận. Lý do có bức thư này chính là để trả lời cho bức thư cuối cùng mà nhân vật Anna Shtrum trong cuốn tiểu thuyết viết cho con trai, bức thư mà Grossman cảm thấy mẹ mình đã ko bao giờ kịp viết cho ông.
(**) Zema là cách gọi âu yếm của mẹ đối với cha của Grossman, ông Semyon Osipovich Grossman (1870 - 1956)
HAI MƯƠI HAI
VƯỢT QUA UKRAINA TỚI ODESSA
Đầu tháng 3, Grossman đi theo sở chỉ huy Phương diện quân Ukraina 3. Quân Đức vẫn đang đóng giữ ven bờ Biển Đen dù bị Phương diện quân Ukraina 1 thọc sườn từ phía bắc.
Trong tuần đầu tháng 3, Nguyên soái Zhukhov thay thế Vatutin bị thương nặng ngày 29/2 trong cuộc phục kích của du kích UPA người Ukraina. (*) Zhukhov trực tiếp chỉ huy 1 cuộc tấn công mới về hướng Ternopol. Cũng trong tuần đầu tháng 3 đó, Phương diện quân Ukraina 2 của Nguyên soái Konev tấn công về hướng Uman, dọc đường đã đánh chiếm được 1 số lượng lớn kho tàng của đối phương. Sau 5 ngày tiến công, tính đến ngày 10/3, 200 xe tăng, 600 pháo và hàng nghìn xe cộ Đức bị sa lầy dọc đường và phải bỏ lại đã rơi vào tay quân Nga trên đường hành tiến.
Lính Hồng quân nguyền rủa thứ bùn lầy mùa xuân có cái tên rasputitsa này, nhưng người Đức còn khổ sở vì nó hơn nhiều. Các mũi nhọn thiết giáp của Konev đã sốc tới trước chiếm nhiều đầu cầu vượt sang phía nam sông Bug. Họ chỉ còn cách biên giới Moldovia và sông Dnestr chưa đến 100km, con sông này cũng bị vượt qua vào ngày 17/3, 12 ngày sau khi cuộc tấn công bắt đầu. Các sư đoàn Đức, giờ chỉ còn 1 phần nhỏ sức mạnh bình thường, đã phải chiến đấu để thoát khỏi bị bao vây và bỏ chạy thật nhanh, luồn lách qua quân Soviet. Trong nhiều trường hợp, chỉ nhờ được Luftwaffe tiếp tế bằng dù chúng mới có thể chạy tiếp. Tuy nhiên mong muốn chạy thoát của quân Đức là rất cao, ko người Đức nào muốn chịu chung số phận với Tập đoàn quân 6 của Paulus tại Stalingrad.
Cùng lúc đó, trong nhiều cuộc tấn công phối hợp với nhau, Phương diện quân Ukraina 3 của Malinovsky xuất phát từ Ingulets đã vượt liền 2 con sông và sắp cắt rời 7 sư đoàn Đức. Cuộc tiến công đã gặp nhiều yếu tố thuận lợi.
Trước cuộc tấn công, Hội đồng Quân sự Phương diện quân đã phải tính tới mọi điều kiện thời tiết, chăm chú theo dõi phong vũ biểu. 1 chuyên gia thời tiết được triệu tập tới, đó là 1 ông cụ nắm rõ thời tiết địa phương và có thể dự báo bằng cách quan sát 1 số dấu hiệu mà ko ai khác ngoài cụ biết. Các sĩ quan đều quan tâm đặc biệt đến tình hình thời tiết.
Ngày 6/3, Phương diện quân Ukraina 3 của tướng Rodion I. Malinovsky mở cuộc tấn công dọc theo bờ Biển Đen nhằm chiếm Odessa. Đối phương là Tập đoàn quân 6 Đức - đơn vị được tái lập sau khi tiền thân của nó bị tiêu diệt ở Stalingrad theo lệnh của Hitler nhằm lấp liếm thất bại. Mũi nhọn là lực lượng kỵ binh của trung tướng I. A. Pliev gồm Quân đoàn 4 Kỵ binh Cận vệ và Quân đoàn 4 Cơ giới. Kỵ binh tỏ ra rất hữu hiệu trong tình trạng bùn lầy nặng.
Sở chỉ huy tiền phương đóng tại làng Novaya Odessa, cách Odessa khoảng 90km. Bùn lầy khủng khiếp. Nếu ko được Rudnyi giúp chắc tôi ko thể mang nổi vali từ sân bay đến sở chỉ huy.
Tiến quân trong bùn cần những nỗ lực to lớn. Lượng nhiên liệu vốn đủ để chạy xe hàng trăm km giờ chỉ chạy được vài trăm mét. Các đội cơ động đang cắt dây thông tin, các tuyến hậu cần và giao liên của địch. Thỉnh thoảng có trường hợp bọn Đức tháo chạy tán loạn.
Khắp thảo nguyên ngập trong tiếng gầm của xe cộ và máy kéo các loại đang cố băng qua bùn lầy. Các "con đường" có thể rộng tới hàng trăm mét.
Grossman đã mô tả rất chi tiết cuộc tiến công này trong 1 bài báo đăng trên tờ Krasnaya Zvezda.
Cuối cùng thì thời tiết cũng nóng dần lên, 1 đám mây bụi bắt đầu xuất hiện bay quanh những chiếc xe tải. 1 viên đại uý gầy gò đen nhẻm với áo khoác phủ đầy bụi nâu đỏ sung sướng hít sâu thứ ko khí đầy bụi: "Ôi, cứ tưởng tượng đến thứ bùn lầy tồi tệ trước kia là tôi thấy đám bụi này còn đẹp hơn tất cả những bông hoa xuân. Đối với chúng tôi thứ mùi bụi bậm này thật là tốt đẹp."
(*) UPA - Ukrainska povstanska armiia - Quân khởi nghĩa Ukraina, tổ chức dân tộc chủ nghĩa và chống cộng cực đoan từng cộng tác với Đức nhưng quay lại tấn công chúng khi quân Nazi đối xử tàn nhẫn với người Ukraina tại các vùng tạm chiếm.
Vài ngày trước, tiếng gầm chói tai của những chiếc xe tải 1.5 tấn, xe Yaz 5 tấn (*), máy kéo, xe xích kéo, Dodge và Studebaker vang ko ngừng trên khắp thảo nguyên. Những cỗ xe gầm lên giận dữ cố thoát khỏi đám bùn bám chặt khiến những người lính ko thể ngủ nổi. Những bánh xe quay tít 1 cách vô dụng, chỉ làm bắn lên từng đám bùn, lún sâu thành từng vết trên mặt đường nhầy nhụa. Hàng nghìn người lính gầy gò, mồ hôi đầm đìa nghiến răng nghiến lợi đẩy đằng sau mỗi chiếc xe hoặc vét bùn ra khỏi bánh xe suốt ngày đêm dưới những cơn mưa ko dứt. 3 lần đáng nguyền rủa cái mùa tuyết tan ướt át này ...
Ai sẽ kể lại kỳ công của những con người này? Ai sẽ tái hiện thiên anh hùng ca về cuộc tiến công vô tiền khoáng hậu này, cuộc tiến công ko ngừng nghỉ suốt ngày và đêm? Những người lính hành quân bộ mang theo gấp rưỡi cơ số đạn (**), áo choàng ướt đẫm và nặng như chì. Những cơn gió bắc độc địa rú rít quanh họ, làm áo choàng của họ đóng băng cứng ngắc như 1 tấm thép. Ủng của họ kẹt xuống lớp bùn như thể chúng nặng cả pút. Có khi người ta chỉ đi được 1km/giờ 1 cách vô cùng khó khăn trên con đường này. Khắp nhiều km quanh đây ko có 1 khoảnh đất khô ráo nào, binh lính ngồi ngay xuống bùn mà nghỉ hoặc tháo ủng ra quấn lại xà cạp. Lính cối theo sau lính súng trường, mỗi người đều đeo theo 6 quả đạn buộc bằng dây thành 1 băng vòng từ sau lưng ra trước ngực.
“Cũng ổn thôi,” họ nói. “Bọn Đức còn khó khăn hơn nhiều, giờ đây thời tiết này là cái chết cho chúng ...”
Ko có việc gì đáng sợ hơn việc bắc cầu qua sông Nam Bug. Công binh chỉ lập được 1 đầu cầu bé tí trên bờ tây, quân địch tấn công mạnh và những người lính công binh bắc cầu ko chỉ dưới hỏa lực Đức mà là ngay giữa luồng đạn bắn thẳng vào mình. Đầm lầy như 1 nồi bột nhão ko có đáy: 1 xúc gỗ được ném xuống thử đã chìm sâu 11m. (***)
Các tập đoàn quân của Malinovsky đã chiếm được thành phố Nikolayev nằm ở cửa sông Nam Bug, con đường tới Odessa đã mở ra trước họ. Nguyên soái Konev quyết định tung 1 số đơn vị về hướng nam nhằm bao vây các Tập đoàn quân 6 và 8 Đức cũng như Tập đoàn quân 3 Rumany xấu số giữa các lực lượng của ông và các tập đoàn quân của Malinovsky.
Lãnh đạo quân đội Đức đã đưa chỉ huy Sư 16 Cơ giới (****) ra tòa án binh. Đây là lời trần tình của hắn: “Ko có xe cộ, lính của tôi còn yếu hơn 1 sư đoàn bộ binh.”
Quân địch rất sợ bị bao vây. Chúng ko tin rằng tuyến phòng thủ của chúng đủ mạnh vì các chỉ huy đã lừa chúng quá nhiều.
1 sĩ quan tiêu biểu của quân ta trong thời kỳ mới là: (1) Ý chí; (2) Tin cậy; (3) Coi khinh quân địch; (4) Có khả năng tổ chức chiến đấu với tăng và pháo chứ bộ binh cần ít thôi; (5) Có khả năng đảm bảo đạn dược trong 1 trận chiến lớn mà lượng dự trữ lại rất yếu kém; (6) Biết cách thúc giục cấp dưới nhưng ko phải bằng những câu khẩu hiệu, điều đó chỉ tổ tốn máu vô ích. Họ thúc giục binh sĩ vượt các con sông vì thà dùng bè cây còn nhanh hơn chờ hàng ngày trời thiết bị vượt sông. Càng tiến nhanh quân địch sẽ càng phải chạy nhanh.
(*) Yaz 210G là loại xe tải đáng tin cậy của Hồng quân, trọng tải 5 tấn, có chắn bùn cả 6 bánh. Các tài xế Soviet khoái xe Mỹ được cung cấp theo Thoả ước Lend - Lease hơn, nhưng mặt khác lại ghét tất cả các loại xe Mỹ viện trợ ở điểm là chúng chạy bằng xăng, dễ bắt cháy nếu trúng đạn hơn các loại chạy bằng diesel như T34.
(**) Cơ số đạn tiêu chuẩn được tăng thêm 50% trong cuộc tiến công vì vấn đề hậu cần trở nên quá khó dự đoán do ko biết đâu sẽ là điểm dừng để chuyển sang phòng ngự.
(***) Ngày 11/3/1944, các bộ phận của Tập đoàn quân Xe tăng 2 của Bogdanov và Xe tăng 6 của Kravchenko đã chiếm được 1 số đầu cầu qua sông Nam Bug.
(****) Ở đây đang nhắc tới Sư 16 Panzergrenadier, chỉ huy là Thiếu tướng Gunther Von Manteuffel, sau này sư đoàn được tái lập với tên Sư 116 Thiết giáp.
Odessa đứng vững được tới ngày 10/4, nó chủ yếu được phòng ngự bởi Tập đoàn quân 3 Rumany. Quân Rumany chiếm đóng vùng tây nam Ukraina tỏ ra dễ chịu hơn nhiều nếu so sánh với cách cư xử của quân Đức đối với dân cư vùng tạm chiếm. Grossman tham gia vào đoàn quân giải phóng và đã đi xem xét khắp Peresyp, 1 quận của Odessa.
Trong ngày Odessa được giải phóng, khu cảng trống rỗng, khói bốc cuồn cuộn, tiếng gầm của xe pháo vang khắp thành phố. Từng đám người đổ ra. Những xác chết cháy đen được đưa ra khỏi toà nhà của bọn Gestapo. Xác 1 cô gái đã cháy thành than mà mớ tóc vàng rất đẹp vẫn còn nguyên.
Dòng chữ trên căng tin của lính Rumany: "Lối vào cấm người Đức."
Cuộc họp đầu tiên của Thành uỷ Odessa, bí thư Thành uỷ mời tôi tham dự. Đây là lần đầu tiên 1 người ngoài Đảng như tôi được mời vào 1 cuộc họp như vậy.
Có rất nhiều đồ ăn - đường, bánh, bột mì. Những người dân địa phương chửi rủa người Rumany 1 cách miễn cưỡng, như thể chỉ để cho phải phép.
Viễn cảnh kết thúc chiến tranh thúc đẩy tinh thần lạc quan trong nhiều người dân cũng như Hồng quân. Với sự thất bại của chủ nghĩa phát xít, người ta bảo nhau rằng có lẽ Stalin sẽ giải tán lực lượng đặc vụ NKVD và các trại cải tạo Gulag. Grossman cũng nghe được những lời như vậy trong các chiến hào Stalingrad và chia sẻ niềm hy vọng này. Tuy nhiên giờ đây ông đã cảm thấy những người Stalinist sẽ chẳng thay đổi gì hết.
Những cụ già Odessa trên đại lộ, nói chuyện oang oang về việc tái tổ chức chính quyền Soviet sau chiến tranh.
1 nhà thơ đã có tác phẩm được xuất bản trong 1 cuốn thơ tiếng Rumany nhan đề "Hôm nay tôi hát" nói chuyện với tôi. Ông ta là 1 người cực kỳ khó ưa. Đột nhiên tôi nhìn thấy mẹ ông ta đứng dưới cửa sổ bên ngoài, đôi mắt bà ta nhìn ông con với vẻ đầy sợ hãi.
Aisenshtadt Simon, con trai 1 giáo sĩ Do Thái nổi tiếng ở thị trấn nhỏ Ostrovet (*) đã được 1 cô gái Nga cứu. Cô đã giấu anh trong phòng mình hơn 1 năm. Câu chuyện của anh về ghetto (khu tập trung Do Thái) tại Warsaw, về cuộc nổi dậy, về những người Ba Lan đã tuồn vũ khí vào. Người Do Thái Ba Lan phải đeo băng tay trắng, người Do Thái Bỉ và Pháp đeo băng vàng. Treblinka gần Warsaw là trại huỷ diệt người Do thái, trong đó có 1 phòng lắp những con dao di động đặt trong tầng hầm, dưới 1 banya (nhà tắm hơi). Những thân người sẽ bị cắt thành từng mảnh rồi đem đốt. Có hàng núi tro cao từ 20 - 25m. Tại 1 chỗ khác người Do thái bị đẩy xuống 1 cái hồ đầy acid, tiếng thét của họ khủng khiếp tới mức nông dân địa phương phải bỏ nhà mà đi. 58.000 người Do thái Odessa đã bị thiêu sống ở Berezovka (**). 1 số bị đốt chết trong các toa tàu hoả, những người khác bị đưa tới 1 bãi trống nơi bọn Đức phun xăng lên người họ rồi châm lửa đốt.
Lời kể của Bí thư Thành uỷ Ryasentsev. Domanevka (***) là nơi người Do thái bị hành quyết. Chính bọn cảnh sát người Ukraina tiến hành cuộc hành quyết này. 1 mình tên cảnh sát trưởng Domanevka đã tự tay giết 12.000 người.
(*) Thị trấn này nằm cách Odessa khoảng 270km về phía bắc.
(**) Berezovka hay Berozovka nằm cách Odessa khoảng 80km về phía bắc trên tuyến đường sắt chạy từ Cherkassy đến Nikolayev.
(***) Domanevka là 1 thị trấn khác cách Berezovka 40km về phía bắc - đông bắc.
Tháng 11/1942, Antonescu ban hành luật trao quyền cho người Do Thái (*), các cuộc thảm sát vốn đã diễn ra trong suốt năm 1942 bị cấm chỉ. Cảnh sát trưởng Domanevka và 8 tay chân thân tín nhất bị người Rumany bắt đưa đi Tiraspol (**) để xét xử. Phiên toà đã xử hắn 3 tháng cải tạo lao động vì những hành động bất hợp pháp với người Do thái.
Bản án bất công này là tác phẩm của tay uỷ viên công tố Domanevka, 1 luật sư người Nga sống ở Odessa, hắn là kẻ đã giết 8 - 9 người mỗi ngày chỉ để cho vui. Hắn gọi thế là "đi săn", hắn thường giết người bằng cách rút thăm. Trẻ con bị hắn thiêu sống bằng cách ném xuống hố rải rơm đang cháy.
Vào lúc lệnh của Antonescu được ban hành, còn khảng 380 người Do thái ở Odessa sống sót và độ 40 đứa trẻ trong 1 trường mẫu giáo, họ ko còn ngay cả quần áo giầy dép. Tổng số người Do thái Odessa bị thảm sát là khoảng 90.000. Những người sống sót được nhận viện trợ từ Uỷ hội người Do thái Rumany. Những người Do thái Rumany cũng bị hành quyết như người Do thái Odessa, họ bị lừa tới Domanevka. Đây là cách mà 1 trong những triệu phú giầu nhất Rumany bị giết. Ông ta được đưa tới Domanevka với lý do là để thiết lập 1 khu mỏ khai thác đất sét dành cho công nghiệp làm đồ gốm tại địa phương. Có 3 người Do thái khác đã tham gia vào việc tra tấn và hành quyết ông, cả 3 đều đã bị bắt.
Tại Odessa, chúng đã bố ráp người Do thái vào sau đó đến ngày 10/1/1942 lùa họ tới khu ghetto ở Slobodka. Lúc đó rất lạnh, khi bị lùa lên tàu đã có hàng trăm xác chết của những người già, trẻ em và phụ nữ bị vứt lại trên phố.
Ngoài việc nhận thấy rằng rất nhiều người quen biết mình giờ đã chết, Grossman cũng có 1 kinh nghiệm trái ngược trong mùa xuân năm đó, cách Berdichev ko xa. Ông đến thăm lữ đoàn tăng của Phương diện quân Ukraina 1 đang được tái trang bị tại Vinnitsa, đây vốn là nơi đặt sở chỉ huy của Hitler, mật danh Wehrwolf. Ông đã ăn tối với lữ đoàn trưởng, "1 người thấp bé, bình tĩnh và bản chất tốt", như Ortenberg mô tả trong 1 bài viết. "Trong bữa tối, khi nói chuyện về ngày giờ và địa điểm các trận chiến, Grossman đã nhận thấy người này rất giống nhân vật Babadzhanyan chỉ huy trung đoàn 395 mà ông đã biến thành người hùng trong tiểu thuyết "Nhân dân bất diệt". "Phải, là tôi đấy," Babadzhanyan xác nhận. "Nhưng anh đã cho tôi chết rồi còn đâu."
""Tôi đã giết anh," Grossman trả lời, "nhưng tôi cũng có thể cải tử hoàn sinh cho anh.""
(*) Thống chế Ion Antonescu, nhà độc tài Rumany chống cộng nhưng ko chia sẻ với đồng minh Đức chủ nghĩa bài Do thái. Nhà cầm quyền Rumany đã được chính phủ Đức công nhận cho 1 khu bán tự trị tại khu vực Odessa.
(**) Tiraspol là 1 thị trấn lớn nằm bên sông Dnestr thuộc Moldovia mà người Rumany đã đòi lại sau khi nó bị Stalin chiếm năm 1940. Ngay sau khi Hồng quân tái chiếm nó đã bị sáp nhập lại vào Liên Xô.
HAI MƯƠI BA
CHIẾN DỊCH BAGRATION
Sau khi giải toả hoàn toàn Leningrad và chiếm lại Ukraina 1 cách nhanh chóng, Stalin tiếp tục được các tướng lĩnh của Stavka tư vấn. Họ bao gồm Zhukov, phó tổng chỉ huy tối cao; Vasilevsky, tổng tham mưu trưởng; tướng Antonov (*), phó tổng tham mưu trưởng; tướng Shtemenko (**), chỉ huy hành quân.
Sau khi quân Đức thất bại tại mặt trận phía nam và bị đẩy bật về Rumany, Grossman chuyển sang hướng bắc, tới biên giới phía đông Belorussia, vùng lãnh thổ Soviet cuối cùng còn nằm dưới ách chiếm đóng của bọn Nazi. Ông nhận thấy giờ đây mình còn ở gần nơi chiến tranh bắt đầu hơn cả 3 năm về trước. Đông Belorussia là điểm xuất phát của những chiến dịch tham vọng nhất trong cuộc chiến Nazi - Soviet.
Stavka đã được người Mỹ và người Anh thông báo Chiến dịch Overlord sẽ bắt đầu vào cuối tháng 5. Kế hoạch tấn công mấu lồi khổng lồ Belorussia (Ban công Belorussia) được vạch ra với những quy định nghiêm ngặt về bảo mật. Ngoài Stalin, chỉ có 5 người nữa biết được bí mật của kế hoạch. Họ biết rằng họ phải đánh lừa được người Đức về hướng tấn công chính. Các tập đoàn quân xe tăng tại phía nam vẫn giữ nguyên vị trí và tập trung lại với nhau làm ra vẻ đang chuẩn bị 1 cuộc tổng tấn công nữa về hướng nam vùng đầm lầy Pripet. Liên lạc điện đài bị buộc phải ngừng tại 3 phương diện quân Ukraina giống như trước mỗi cuộc tấn công và tin đồn về hải quân đang đổ bộ lên bờ biển Đen thuộc Rumany được lan truyền. Người Đức đã thua trong cuộc đấu trí này, họ tăng cường các đơn vị tại phía nam đặc biệt là quanh khu vực Lvov.
Kế hoạch Soviet với 1.250.000 quân tham chiến được lên xong ngày 20/5. Cùng lúc đó, những đơn vị xe tăng mới được tăng cường bí mật di chuyển tới biên giới phía đông Belorussia. Đích thân Stalin đặt mật danh cho chiến dịch là Bagration, viên tướng vĩ đại người Gruzia đã bị trọng thương trong trận Borodino. Rokossovsky, 1 người Ba Lan từng bị bắt trước chiến tranh và bị các đặc vụ NKVD của Beria tra tấn, đã đối đầu với Stalin trong 1 cuộc tranh luận ác liệt về giai đoạn khởi đầu chiến dịch, ông muốn chia quân thành 2 cánh tấn công về hướng Vitebsk và Bobruisk, thọc vào 2 bên sườn "Ban công Belorussia" để bao vây Minsk. Cả Molotov và Malenkov đều cố gàn Rokossovsky đừng đấu với Vozhd - Lãnh tụ. "Anh có biết anh đang cãi nhau với ai ko?" họ nói. Nhưng Stalin đã tỏ ra khâm phục dũng khí của Rokossovsky và chấp nhận quan điểm của ông.
Các lực lượng đồng minh phương Tây đổ bộ lên Normandy ngày 6/6 trong khi Hồng quân vẫn còn phải sốt ruột chờ đợi những thiết bị mới đang tới mà hệ thống đường sắt thì đã bị quá tải nặng nề. Grossman ghi lại phản ứng về những sự kiện tại Normandy.
Đề tài Mặt trận thứ 2 đã mở được mọi người nhiệt tình hưởng ứng ngay từ ngày đầu tiên. Các cuộc hội họp, bắn súng ăn mừng được tổ chức nhưng sau đó niềm hứng khởi giảm rất nhanh.
1 câu nói tiêu biểu: 1 người nói trên tàu hoả khi nghe được tin Đồng minh tấn công: "Vậy đấy, giờ thì có lẽ họ sẽ thậm chí ko xuống tàu với chúng ta."
1 số binh lính hoặc thậm chí sĩ quan chưa bao giờ có cơ hội biết về cuộc sống bên ngoài đơn vị nên đã dội bom 1 người ngoài như Grossman bằng những câu hỏi.
Các sĩ quan và binh lính rất hay hỏi về tình hình thế giới, và rất nhiều người hỏi. Họ hỏi về Mặt trận thứ 2, tình hình Nhật, Thổ Nhĩ Kỳ, Iran và cả trăm vấn đề khác. Các câu hỏi về vấn đề ngoại giao ít hơn 1 chút. Khi hỏi, người ta có vẻ muốn tìm hiểu về diễn biến và thời gian chiến tranh.
(*) Tướng Aleksei I. Antonov (1896 - 1962) được xem là sĩ quan tham mưu giỏi nhất của Hồng quân trong cuộc chiến, ông trở thành tổng tham mưu trưởng năm 1945.
(**) Tướng Sergei M. Shtemenko (1907 - 1976) là chỉ huy hành quân và lên thay Antonov khi ông này thăng chức năm 1945. Shtemenko ko phải trải qua cuộc thanh trừng mà Stalin tiến hành với nhiều tướng lĩnh Soviet kỳ cựu ngay trước chiến tranh. Ông trở thành tổng tham mưu trưởng năm 1948.
Grossman đi theo Tập đoàn quân 65 của tướng Batov, 1 bộ phận của Phương diện quân Belorussia 1 do Rokossovsky chỉ huy, vào thời điểm diễn ra cuộc tổng tấn công. Sau nhiều trì hoãn, cuộc tấn công bắt đầu vào ngày 22/6, đúng ngày kỷ niệm 3 năm cuộc xâm lược của bọn Nazi. 2 ngày sau, 3 tập đoàn quân của Rokossovsky - Tập đoàn quân 3 của Gorbatov, 48 của Romanenko và 65 của Batov - đã vượt qua vùng rừng ngập nước phía bắc đầm lầy Pripet để tấn công Tập đoàn quân 9 Đức quanh Bobruisk trên sông Beresina. Ngày 27/6, quân phòng thủ Đức - khoảng 5.000 người thuộc Sư 383 Bộ binh - đã chặn được những đợt tấn công ồ ạt đầu tiên vào thành phố nhưng sau đó chúng nhận ra rằng chúng đã bị bao vây. Viên sư trưởng, tướng Hamann (*), đã cố gắng đánh mở đường về phía bắc thành phố nhưng lối thoát đó đã bị Tập đoàn quân 3 của Gorbatov cắt đứt. Grossman mô tả lại lại những gì nhìn thấy tại Bobruisk khác với phần lớn phóng viên Soviet khác chỉ toàn ca ngợi sức mạnh tập thể của Hồng quân. Ông luôn thích cá nhân hoá những con người đang ở giữa cảnh chém giết tàn bạo của chiến trường.
Đôi khi bạn phát run lên vì những gì nhìn thấy, máu trong tim trào sôi, và bạn biết rằng hình ảnh này sẽ ám ảnh suốt cuộc đời bạn. Thật kỳ lạ khi bạn ngồi viết về nó, bạn ko thể viết được hết ra trên mặt giấy. Bạn đang viết về 1 quân đoàn tăng, về pháo binh nặng, nhưng bất giác lại nhớ về những đàn ong bay vù vù trong 1 ngôi làng cháy rực, 1 cụ già người Belorussia chân trần trèo lên khỏi con hào nơi cụ náu mình trước những quả đạn pháo và xua đàn ong đi bằng 1 cành cây, những người lính nhìn cụ và, lạy Chúa, ai nấy đều có thể đọc được biết bao điều trong đôi mắt thâm trầm và u uất của cụ. Trong cặp mắt nhỏ bé đó chứa đựng tất cả tâm hồn của con người đã chịu đựng và vượt qua cuộc chiến với chiến thắng ...
Làm cách nào để nhận ra những người quen cũ ở Stalingrad (**) giữa khói bụi, tiếng gầm của động cơ, tiếng nghiến của xích xe tăng vào pháo tự hành cùng tiếng rít của những hàng dài xe ngựa kéo đang đi về hướng tây, cùng với đó là hàng đoàn phụ nữ chân đất đầu đội khăn và trẻ em đi về phía đông, trở về nhà? Vài người tốt bụng chỉ cho chúng tôi cách nhận biết nhờ biểu tượng nổi tiếng của sư đoàn cho đỡ phải dừng xe và hỏi han ko cần thiết, đó là chú lạc đà Kuznechik (Châu chấu) trong đơn vị hậu cần của trung đoàn pháo. Chú lạc đà này đến từ Kazakhstan và đã đi cùng sư đoàn trên mọi nẻo đường từ Stalingrad đến Beresina. Các sĩ quan liên lạc thường tìm Kuznechik của đội hậu cần chứ ko cần hỏi để tìm xem sở chỉ huy ở đâu dù sở chỉ huy có luôn di chuyển suốt ngày đêm. Chúng tôi ghi nhận lời chỉ bảo kỳ cục này 1 cách vui vẻ và lên đường.
Thứ đầu tiên chúng tôi nhìn thấy khi quay lại với đám đông ầm ĩ và bụi mù mịt trên con đường chính là 1 chú lạc đà màu nâu đang kéo 1 cỗ xe. Nó gần như trọc, ko còn tí lông nào trên đầu, đích thị đây là Kuznechik nổi tiếng rồi. 1 đám tù binh Đức đang đi bên kia đường, chú lạc đà quay cái đầu xấu xí về hướng chúng, môi dưới trề ra với vẻ khinh bỉ. Chắc là màu sắc khác thường của quân phục đám tù binh hoặc thứ mùi kỳ quái phát ra từ chúng đã thu hút sự chú ý của nó. Tay đánh xe lạc đà nói với đám lính áp giải tù binh với giọng tỏ ra rất nghiêm túc: "Đưa mấy tên Đức cho chúng tôi luôn đi, Kuznechik đang muốn ăn chúng!" Và ngay sau đó chúng tôi được biết tiểu sử của chú lạc đà. Nó thường trốn giữa những thùng đạn pháo khi có pháo kích, từng bị 3 vết thương nhẹ và đã được trao huy chương "Vì đã bảo vệ Stalingrad". Chỉ huy trung đoàn pháo Kapramanyan đã hứa thưởng huân chương cho tay đánh xe nếu cậu ta đến được Berlin cùng Kuznechik. (***) Chúng tôi đi theo hướng Kuznechik chỉ và tìm thấy sư đoàn.
Tôi ko tìm thấy nhiều người quen cũ tại sư đoàn của Gurtiev, tôi nhớ rất rõ họ dù chỉ qua những cuộc gặp gỡ ngắn ngủi. Bản thân Gurtiev đã hy sinh trong trận đánh giải phóng Orel khi 1 quả đạn pháo bắn trúng điểm quan sát, ông đã lấy thân mình che cho tướng Gorbatov. Máu của viên - tướng - của - những - người - lính này dính cả vào mũ của Gorbatov.
(*) Trung tướng Hamann bị bắt sống, sau đó bị xử tử nào năm 1945 vì tội ác chiến tranh.
(*) Ở đây chắc Grossman đang nhắc tới Sư 308 Bộ binh cũ do tướng Gurtiev chỉ huy tại Stalingrad, đơn vị được chuyển thành Sư 120 Bộ binh Cận vệ vào tháng 9/1943. Sư đoàn gồm phần lớn là dân Siberi này đã bảo vệ nhà máy Barrikady (Chiến Luỹ) trong trận Stalingrad. Trong chiến dịch Bagration sư đoàn là 1 bộ phận của Tập đoàn quân 3.
(***) Chú lạc đà Kuznechik còn nổi tiếng hơn nữa vào năm sau khi chú đến được Berlin và được cậu đánh xe dẫn đi xuyên qua thành phố đến nhổ nước bọt vào toà nhà Reichstag.
Khi chúng tôi đến Bobruisk, vài ngôi nhà vẫn còn cháy đùng đùng, số khác chỉ còn là đống đổ nát. Hãy để Bobruisk dẫn lối con đường báo thù! Với nhiều khó khăn, chiếc xe của chúng tôi len lỏi giữa những đống đổ nát và những chiếc xe tăng, pháo tự hành Đức móp méo. Binh lính bước qua xác những tên Đức. Hàng trăm, hàng ngàn cái xác phủ khăp mặt đường, trong những con hào, dưới những gốc cây, trên những cánh đồng lúa mạch xanh non. Ở vài chỗ xe phải cán qua những xác chết nằm dày đặc trên mặt đất. Mọi người đang hết sức bận rộn với việc chôn chúng, nhưng chúng quá nhiều đến mức việc này ko thể hoàn tất chỉ trong 1 ngày. Hôm nay trời vẫn nóng phát ngốt và người ta phải đi bộ hay lái xe với khăn tay bịt mũi. Nơi đây đã biến thành cái vạc dầu của thần chết do những người báo thù thực hiện - cuộc báo thù ghê rợn, ko thương xót dành cho tất cả những kẻ ko chịu hạ vũ khí mà định đào thoát về phía tây.
1 tên lính Đức bị thương vào chân đang ngồi bên bờ sông Beresina, cạnh con đường dẫn vào thành phố Bobruisk rực cháy đã bị tàn phá. Hắn ngẩng đầu nhìn đoàn tăng pháo đang đi qua cầu. 1 người lính Hồng quân lại gần hắn, múc ít nước sông vào cà mèn đưa cho hắn uống. Tôi ko thể ko nghĩ đến chuyện tên Đức này đã làm gì vào mùa hè năm 1941, khi những đoàn thiết giáp và binh lính Đức tiến về phía đông cũng trên cây cầu này, ko biết hắn sẽ làm gì nếu thấy 1 người lính ta bị thương vào chân ngồi bên bờ cát.
Grossman được chấp thuận cho phỏng vấn các tướng lĩnh Đức bị bắt làm tù binh. Trung tướng Von Lutzov, chỉ huy Quân đoàn 35, dân Phổ, 52 tuổi, bị bắt gần Bobruisk trong 1 vòng vây khác (*). Theo hầu hết các báo cáo, viên tướng này đã suy sụp vì căng thẳng khi phải phòng thủ 1 vị trí ko còn có thể phòng thủ mà Hitler lại từ chối đề nghị cho hắn được rút quân.
(Nguyên) Trung tướng Lutzov ko ca ngợi quân ta có điều gì đặc biệt giỏi giang. Theo hắn binh lính ta ko có sự sáng tạo, nếu ko có người chỉ huy họ sẽ ko biết làm trên trận địa. Pháo binh ta thì mạnh nhưng máy bay Soviet bỏ bom mà chẳng ngắm gì cả.
Lutzov phàn nàn về việc hắn hoàn toàn thiếu tự do hành động. Ví dụ, hắn cần được bộ chỉ huy tập đoàn quân chấp thuận cho bỏ vị trí, tập đoàn quân lại cần chấp thuận của Cụm tập đoàn quân, Cụm tập đoàn quân lại cần chấp thuận của Bộ Tổng tham mưu (**). Lutzov chỉ nhận được lệnh chấp thuận cho rút khi vòng vây quanh Quân đoàn 35 đã khép kín.
(Nguyên) Tướng SS Heyne nói về bản thân: "Tôi là 1 Frontschwein." (***)
Hầu hết tướng lĩnh, sĩ quan và binh lính Đức bị bắt trong Chiến dịch Bagration đều bị áp giải về Moscow để đưa đi diễu trong buổi diễu binh mừng chiến thắng ngày 17/7. Truyền thông Soviet đã tô vẽ thêm là nhiều đứa trẻ Nga đã chờ đợi ngày này để xem những con quỷ bị báo thù chứ ko phải là những người lính bại trận. Trong bất kỳ trường hợp nào cũng cần nhấn mạnh thất bại to lớn này của quân đội Đức, Wehrmacht đã mất khoảng 1/3 triệu quân, còn nặng nề hơn cả trận Stalingrad.
Báo cáo từ các sĩ quan tình báo Soviet cũng cho Grossman biết đối nét về những giấy tờ tịch thu được và các cuộc thẩm vấn tù binh.
Tịch thu được 1 tấm bản đồ của bọn Đức. Các chi tiết hoàn toàn giống với bản đồ mà bộ phận tình báo của ta vẽ, ko chỉ vị trí các sư đoàn mà cả các đơn vị dự bị, các điểm tập trung quân, v.v..., giống tất.
1 sĩ quan tù binh Đức nói các sĩ quan Đức cãi nhau suốt về đòn tấn công tiếp theo của người Nga. Số ít cho rằng quân Nga sẽ đánh trên toàn tuyến, số khác, nhiều hơn, nói về cái bẫy chuột khổng lồ có tên "Belorussia".
(Trước cuộc tấn công của quân Soviet) Thống chế Bush đi thăm các đơn vị tiền tuyến để "xem niềm lạc quan và sự kiên định" của họ. Người Đức đã định rút bớt 1 số đơn vị từ tiền tuyến về sâu trong nội địa, có lẽ tin này liên quan tới cuộc tấn công của lực lượng Đồng Minh.
Trên đường tiến công tới Minsk ở phía tây bắc, Grossman lại nhập vào Tập đoàn quân 65 của tướng Batov. Chỉ trong có hơn 1 tuần, tuyến phòng thủ của Cụm Tập đoàn quân Trung tâm đã bị phá vỡ. Quân Đức mất 200.000 người và 900 xe tăng, nhưng thương vong của phía Soviet cũng khá lớn ở nhiều vị trí. Thậm chí các tướng lĩnh Hồng quân còn tỏ ra chai sạn trước những cuộc tàn sát đẫm máu. Ngay cả khi chiến dịch đã bắt đầu, Hitler và Bộ chỉ huy tối cao Đức vẫn còn chưa mường tượng được kế hoạch của người Nga là đánh vào 2 cánh như 1 cái càng cua, bên trong đó vây trọn Minsk và toàn bộ Cụm tập đoàn quân Trung tâm.
Ngày 3/7, xe tăng Soviet đã tới vùng ngoại ô Minsk. Thêm 100.000 quân Đức nữa rơi vào rọ, gần 1/2 số đó bị giết. Ghi chép của Grossman về giai đoạn này khá tuỳ tiện, vừa có vẻ tàn bạo, ham muốn trả thù, vừa là những mô tả thực tế. Lính Ý, những kẻ cũng từng gây tội ác trên nước Nga vì lý tưởng phát xít mà phần lớn chúng bản thân chẳng hề tin theo, sau đó nhận ra mình chỉ là tù binh hay nô lệ cho người Đức. Grossman cũng nghe được chuyện 1 số trường hợp cựu binh Hồng quân phục vụ trong quân Đức đã bị xử tử.
(*) Trung tướng Kurt Jurgen Freiherr Henning von Lutzov, sinh năm 1892 tại Marienwerder, bị xét xử tại Moscow ngày 29/6/1950 vì tội ác chiến tranh với mức án 25 năm tù (mức án này được áp dụng cho nhiều tướng lĩnh Đức khi Chiến tranh Lạnh đang leo thang). Được phóng thích và cho hồi hương tháng 1 năm 1956.
(**) OKH (Oberkommanko des Heeres), Bộ Tổng tham mưu, chịu trách nhiệm về mọi hoạt động trên Mặt trận phía Đông. OKW (Oberkommando des Wehrmacht) chịu trách nhiệm về mọi hoạt động ở các nơi khác.
(***) Trung tướng Hans Walter Heyne chỉ huy Sư 6 Bộ binh cũng bị bắt tại khu vực Bobruisk. Heyne thực ra ko phải là thành viên SS, đây chỉ là form mà nhiều báo cáo Soviet sử dụng bừa bãi. "Frontschwein" chắc là 1 câu đùa của Heyne, thành ngữ thường được dùng hơn là "Fronthase", dịch nghĩa là "thỏ mặt trận". Heyne lúc đó 50 tuổi, dân Hanover, bị xử án 25 năm, phần lớn thời gian thụ án ở Vorkuta, được phóng thích và cho hồi hương tháng 12/1955.
Lính Ý bị người của Vlasov hành quyết (*). Tù binh Hồng quân bị tàn sát vào đêm 12 rạng ngày 13/2/1944, đến sáng suốt chiều dài phố Sovyetskaya chất đống hàng nghìn xác chết.
Lửa cháy tại các khu dân cư ven sông; hàng trăm nghìn người đã mất mọi thứ trong lửa đang ngồi trên những gì còn lại: ghế tựa, tranh ảnh, sừng hươu; những cô gái cầm theo bếp.
Tù binh Đức đang đi; trông chúng thật ảm đạm. 1 tên vuốt phẳng quần áo và chào mỗi khi gặp 1 chiếc xe.
1 phiên bản khác của câu chuyện này cho biết tù binh Đức đang trong giai đoạn khủng hoảng.
Các cuộc giết chóc trả thù được xem là bình thường sau cuộc chiến chống du kích kinh hoàng diễn ra trên khắp Belorussia mà người Đức và những kẻ giúp sức cho chúng đã làm, những kẻ mà Hồng quân thường quy tất là Vlasovtsy (người của Vlasov).
1 du kích nhỏ thó đã giết chết 2 tên Đức bằng 1 cây cọc hàng rào. Anh ta đã cãi nhau với người lính áp giải hàng tù binh để đòi cho được 2 tên Đức đó, anh khẳng định 2 tên này chính là những kẻ đã giết con gái Olya và 2 con trai anh. Anh ta dần nhừ tử 2 tên Đức rồi đập vỡ sọ chúng, vừa đánh vừa gào khóc: "Cú này cho con - Olya! Cú này cho con - Kolya!" Khi chúng đã chết rồi anh vẫn còn dựng xác chúng tựa vào 1 gốc cây để đánh tiếp.
Những người của Vlasov đang bị hành quyết. Đồng bào giết nhau, 1 người Orel giết 1 người Orel, 1 người Uzbek giết 1 người Uzbek.
Ko còn 1 sân bay Đức nào phía trước, những chiến đấu cơ quân ta sải cánh trên đất đai ta. Tổ quốc ta sẽ ko phải bừng cháy lâu nữa.
Có tiếng harmonica. Ai đó đã lấy được 1 chiếc kèn harmonica Đức. Đó đúng là thứ nhạc cụ dành cho lính tráng vì nó là thứ duy nhất có thể chơi dễ dàng ở bất cứ đâu, thậm chí ngay cả khi ngồi trên thùng xe xóc nảy.
Binh lính sư đoàn thuộc 14 dân tộc (**).
Vì quá khó tìm giấy cuốn thuốc lá nên đã có nhiều trường hợp người ta dùng cả giấy chứng thương và các giấy tờ quan trọng khác để vấn thuốc hút.
Điện đài viên Skvortsov là người nhỏ thó và chất phác. Anh có 3 cô vợ chưa cưới. 1 cô đã gửi ảnh cho anh, nhưng đó ko phải ảnh cô ta. Cô thứ 2 may cho anh 1 cái áo sơmi cỡ 48 trong khi anh mặc cỡ 46. Anh quát các cô gái ở bộ phận Ctrị: "Tất cả chúng ta đều phục vụ ở đây. Tại sao bạn ko được trao ngôi sao hay quân hàm? Khi chiến tranh kết thúc, bạn sẽ chẳng được gì."
Pháo thủ Konkov, trung sĩ cận vệ, là người duy nhất sống sót. Anh bèn buộc 40 tên tù binh Đức kéo khẩu lựu pháo ra, doạ dẫm chúng bằng cây tiểu liên để buộc chúng bắn trực xạ vào quân địch.
Grossman rất được tướng Batov hâm mộ, ông là chỉ huy Tập đoàn quân 65, đơn vị được Rokossovsky giao dẫn đầu mũi nhọn tiến về phía tây, hướng tới Warsaw.
Batov ko có vẻ là 1 người Nga lạc quan, ghét các thủ tục kể cả việc vinh danh chiến công.
Và giống như các chỉ huy giỏi nhất tại Stalingrad, Batov tin tưởng vào các bài tập thực tế giống như Gurtiev đã bắt lính đào hào, núp dưới đó rồi cho xe tăng chạy qua.
Huấn luyện trước 1 cuộc tấn công. "Nếu có 1 vũng nước sâu tới ngực thì phải tiến hành tập luyện trong vũng nước đó. Nếu có 1 con mương - tập dưới mương."
Nói chuyện với 1 tham mưu trưởng pháo binh về pháo binh Nga, súng Nga. Kiệt tác của pháo binh Nga là cây lựu pháo 152mm, nó vừa là dã pháo vừa là lựu pháo.
(*) Khó mà chắc được họ có phải thành viên của Quân đội Giải phóng nước Nga (ROA) do tướng Vlasov chỉ huy hay ko. Các đơn vị ROA đã bị chuyển sang Mặt trận phía Tây. Từ "người của Vlasov" thường bị Hồng quân sử dụng bừa bãi cho bất kỳ ai là "cựu công dân Soviet" mặc quân phục Wehrmacht. Thậm chí cả các Hiwis hay Hilfsfreiwillige, những người bị bắt buộc làm lính canh trong các trại tù binh hay trại lao động cũng bị gọi như vậy.
(**) Ko rõ Grossman có còn đi cùng Sư 120 Bộ binh Cận vệ trong giai đoạn này hay ko. Dân tộc được ghi trong chứng minh thư mỗi người Liên Xô - người Nga, người Ukraina, người Kazakh, v.v... Ngay cả người Do Thái cũng được xem là 1 dân tộc riêng trong nhiều giấy tờ và bảng thống kê của Hồng quân.
Pháo binh thừa hưởng tinh thần Nga. Tiền sát pháo là 1 lính bộ binh, anh ta mang tới cho khẩu pháo nhiệt tình và sự táo bạo của người lính chiến. Hoả lực góp vào đó sức mạnh. Người Đức bắt đầu cuộc chiến với óc tôn thờ kỹ thuật thì nay phải trở về với việc tôn trọng bộ binh, còn chúng ta bắt đầu cuộc chiến với những người lính bộ binh và càng ngày càng tìm ra nhiều cách hỗ trợ bộ binh bằng kỹ thuật.
Lính trinh sát Đức rất tồi. Chúng khai hoả bừa bãi, bỏ súng dễ dàng. Chúng bỏ chạy thậm chí còn trước cả bộ binh, còn bộ binh thì thường bỏ chạy trước cả pháo binh.
Mặc dù thuốc phóng của pháo Đức là nitroglycerine, mạnh hơn pyroxylin của ta, nhưng dã pháo Đức thường mỏng mảnh và ko dài bằng pháo ta.
Ngày 13/7, thêm 1 đòn đánh nữa giáng xuống quân Đức. Phương diện quân Ukraina 1, giờ chỉ huy là Nguyên soái Konev, tấn công vào Lvov, cuộc tấn công mà người Đức đã tưởng là sẽ diễn ra trước Chiến dịch Bagration. Đây là giai đoạn đầu của cuộc tiến công sẽ mang các tập đoàn quân của Konev thẳng tới Vistula, tại đó Hồng quân đã chiếm được đầu cầu Sandomierz trên bờ tây chỉ sau 2 tuần tiến công, đầu cầu này chỉ cách Warsaw chưa đến 200km về phía nam. Cùng lúc, Phương diện quân Belorussia 1 của Rokossovsky cũng tấn công về phía tây nhằm hướng Vistula cả ở phía bắc và nam Warsaw.
Khi Tập đoàn quân 65 đang tiến như vũ bão trên đất Ba Lan, những người lính Soviet có những cảm giác lẫn lộn về những người dân địa phương. Điều này đặc biệt đúng với những người biết rõ nhà nước Liên Xô đã làm những gì tại Ba Lan vào năm 1939, đó là đâm sau lưng họ như 1 phần của Thoả ước Molotov - Ribbentrop. Người Ba Lan trở thành những kẻ thù tự nhiên, phần lớn họ tỏ ra chống + và là những kẻ phản động trong con mắt Soviet. Tuy nhiên họ cũng chống Đức rất dữ dội và đã kháng cự 1 cách quả cảm. Giờ đây họ lại phải chịu cảnh bị cướp bóc và hãm hiếp do bàn tay của những người đến giúp giải phóng cho họ. Grossman, ko hề nghi ngờ gì về thói bài Do Thái đã đến mức nổi tiếng của người Ba Lan, có lẽ cũng có những cảm giác lẫn lộn như vậy khi ghi lại những dòng tốc ký mà ông có nhắc đến sau này. "Về người Ba Lan. Theo Thiên Chúa giáo. Chia thành những trung đội gồm toàn tín đồ và những trung đội vô thần, trung đội cha cố, giáo chức."
Ông viết 1 bài chào mừng giải phóng Ba Lan. Grossman ko đề cập gì đến sự kinh sợ mà những người dân Đông Ba Lan đã trải qua trong cuộc xâm lược của Hồng quân năm 1939, khi đất nước họ bị bọn Nazi Đức và Liên Xô chia nhau. Rất nhiều bần nông đã trông đợi cuộc cải cách ruộng đất mà chính phủ bù nhìn + sản Ba Lan đóng tại Lublin hứa. Việc chăm lo cho giáo dục lại trở thành lý do khiến người ta sợ đây chỉ là chính sách của những người Stalinist muốn nhổ bỏ văn hoá gốc để áp đặt quyền lãnh đạo + sản.
Từ những cánh rừng đang mùa rụng lá, từ những lùm cây bụi cỏ, hàng nghìn nông dân Ba Lan đang đổ ra những con đường làng phủ đầy cát, đi bộ hay xe kéo. Họ mang về làng những tài sản đã giấu được khi bọn Đức chiếm đóng. Họ cưỡi bò hay ngựa. Từng đám đông nông dân đội mũ phớt và mặc áo jacket, đi bộ, những phụ nữ nông dân đầu đội khăn và đeo tạp dề, vác theo quần áo rét, chăn gối, gương, thảm tự làm, đi theo những đơn vị xe tăng, bộ binh, kỵ binh ta. Đây thực sự là biểu hiện rõ ràng nhất cho tình hữu nghị và niềm tin của những người nông dân Ba Lan vào Hồng quân. Những người nông dân Ba Lan quay về làng mang theo lương thực và tài sản giấu trong rừng ngay khi pháo Soviet vẫn còn gầm chứng tỏ người nông dân Ba Lan hiểu rõ đạo đức và bản lĩnh Ctrị của quân đội ta.
Tôi hỏi nhiều người đang chào đón Hồng quân, họ nói những lời mà tôi đã nghe nhiều lần:
"Chúng tôi chờ đợi như chờ Chúa tới!"
Chỉ có đúng 1 lời phàn nàn là tôi ko nghe được điều gì từ 1 loại người, nhìn thấy nước mắt của 1 loại người ở Ba Lan: người Do Thái. Ko còn người Do Thái nào ở Ba Lan, họ đã bị giết sạch, từ cụ già cho đến trẻ mới sinh. Thân xác họ bị đốt trong những lò thiêu. Và tại Lublin, thành phố Ba Lan với cộng đồng người Do Thái lớn nhất, hơn 40.000 người Do Thái đã sống tại đây trước chiến tranh, tôi ko tìm thấy dù chỉ 1 đứa trẻ, 1 phụ nữ, 1 cụ già nào có thể nói thứ ngôn ngữ mà ông bà tôi nói.
1 thời gian ngắn sau đó Grossman đã tìm ra sự thật khi ông tiếp tục tìm hiểu về hoạt động thảm sát người Do thái tại Trung Âu. Người Ba Lan dù phần lớn chống + nhưng hoàn toàn ko giống người Ukraina, chỉ có rất ít người cộng tác với bọn Nazi.
HAI MƯƠI TƯ
TREBLINKA
Tháng 7/1944, Grossman 1 lần nữa cùng với Troyanovsky trở lại hàng ngũ Tập đoàn quân Stalingrad, lúc này đã được đổi tên là Tập đoàn quân Cận vệ 8 của tướng Chuikov. Troyanovsky mô tả lại con đường đến thành phố Lublin, đông Ba Lan: "Tuyến đường đến Lublin chật ních binh sĩ theo đúng nghĩa đen. Ko quân 2 bên đều tích cực hoạt động. Phóng viên Vasily Grossman và tôi luân phiên nhau theo dõi bầu trời. Lúc này đang có mưa. Nước ngập các đường hào, hố bom và pháo nhưng chúng tôi vẫn thường phải nhảy xuống đó để trốn những chiếc Messerschmitt địch."
Troyanovsky cũng kể lại cuộc gặp của họ với tướng Chuikov. Grossman đã ko tốn nhiều thời gian để phỏng vấn vị tướng, 2 tay ông đều đang phải băng bó.
"Lublin thế nào?" Grossman hỏi.
"Lublin sẽ được giải phóng. Đó là việc sẽ xảy ra trong ít giờ nữa nhưng có 1 vài điều khác làm tôi lo lắng." Chúng tôi im lặng 1 lúc. "Nhìn xem, giờ quân ta hầu như đã có thể sờ thấy Berlin, nhưng tôi sợ các vị lãnh đạo Tổng hành dinh (Stavka) có thể đổi ý và chuyển Tập đoàn quân của tôi sang hướng khác. Điều này đã xảy ra vài lần trước đây. Từ trước đến nay điều tuyệt vời nhất theo cảm nghĩ thông thường và logic của chúng tôi chỉ là: Những chiến sĩ Stalingrad (Stalingradtsy) sẽ tiến vào Berlin!"
Trong khi Chuikov cáu kỉnh vì Tập đoàn quân của ông có thể mất quyền tiến vào Berlin thì những binh sĩ của ông chợt phát hiện 1 cái trại ở Majdanek, phía bên kia thành phố Lublin.
Các mũi thọc sâu của Hồng quân vào Ba Lan trong mùa hè năm 1944 đã làm phát lộ nhiều sự thật khủng khiếp còn hơn cả những vụ thảm sát ở Babi Yar, Berdichev và Odessa. Majdanek, trại tù binh chiến tranh dành cho các binh sĩ Hồng quân bị bắt, đã bị biến thành trại tập trung và lò sát sinh. Các tù nhân từ Sở chỉ huy Gestapo tại Lublin bị hành quyết trong trại ngay cả khi chiến sự vẫn tiếp diễn trong thành phố. Ngày 24/7, lò thiêu người của trại bị đốt cháy nhằm che đậy những tội ác đã diễn ra tại đây, chỉ ngay trước khi quân đội Soviet tới được trại.
Cho dù Grossman đã có mặt ở đó nhưng đối thủ cạnh tranh của ông là Konstantin Simonov, người thay chỗ ông ở Stalingrad, vẫn tới trại để viết về các tội ác của bọn Nazi cho tờ Krasnaya Zvezda. Simonov, 1 người được quý mến tại trung đoàn, đã tránh nhấn mạnh đến nguồn gốc Do Thái của những nạn nhân trong bài viết của mình. Ban Tuyên huấn Hồng quân cũng gửi tới đây những nhà báo phương tây từ Moscow, và Kremlin lập 1 ủy ban đặc biệt để điều tra những tội ác do bọn Đức gây ra tại Trại Tập trung Majdanek. Vì có nhiều người Ba Lan ko phải Do Thái và tù nhân Nga cũng bị đưa vào Majdanek nên nhà cầm quyền Soviet thấy có thể sử dụng trại này cho mục đích tuyên truyền của mình.
Trại Treblinka nằm xa hơn về phía bắc do 1 đơn vị khác của Phương diện quân Belorussia 1 chiếm giữ gần như cùng lúc với Majdanek. Đó là loại trại kiêm lò sát sinh Aktion - Reihard đầu tiên bị chiếm nhưng lực lượng SS, lực lượng do Himmler trực tiếp chỉ huy, đã phá hủy hầu như mọi dấu vết về sự tồn tại của nó *. Hồng quân chỉ phát hiện tại đây khoảng 40 người còn sống sót thoát khỏi trại - 1 số trong đó là nhờ trốn vào khu rừng thông vây quanh trại. Grossman được chấp thuận cho đến đó và đã ko bỏ lỡ chút thời gian nào để phỏng vấn những người còn sống sót và cả các nông dân Ba Lan địa phương. Tính toán của ông, được xây dựng cẩn thận dựa trên các cuộc phỏng vấn những người đã từng ở trong trại, là 800.000 nạn nhân, thường được xem là phần có giá trị nhất trong các bài viết của ông. 1 cách bản năng, Grossman có vẻ như đã nhận ra ý nghĩa chính của câu chuyện. Làm thế nào mà 1 đội quản trại với khoảng 25 tên SS thô lỗ được hỗ trợ bởi chừng 100 người Ukraina Wachmanner có thể giết được quá nhiều người như vậy? Ông sớm phát hiện ra rằng chúng thực hiện được việc đó là nhờ các thủ đoạn lừa đảo, theo đó chúng đánh lạc hướng suy nghĩ của nạn nhân rồi đưa họ tới tình trạng khiếp sợ tuyệt đối. Bài viết này được đăng tải trên tạp chí Znamya số tháng 11 dưới tiêu đề "Địa ngục mang tên Treblinka", sau đó được đăng lại trong văn bản của Tòa án Quân sự Quốc tế Nuremberg.
* Treblinka là 1 địa điểm nhỏ nằm cách thị trấn Ostrow Mazowiecka 25km về phía đông bắc, thị trấn này nằm ở tây bắc Warsaw trên con đường tới Bialystok. Trại nằm cách sông Bug khoảng 6km. 2 trại Aktion - Reinhard khác là Sobibor và Belzec.
Tiết kiệm, cẩn thận và sạch sẽ - đó là những phẩm chất tốt thường có ở nhiều người Đức, chúng chứng tỏ hiệu quả trong lĩnh vực nông nghiệp và công nghiệp. Nhưng Hitler đã sử dụng những phẩm chất này trong tính cách Đức để làm những tội ác chống loài người. Tại các trại lao động ở Ba Lan, bọn SS xử sự với con người như thể họ là súp lơ hay khoai tây.
Khu trại được chia thành những ô hình chữ nhật. Các trại dành cho lính được xây thành hàng thẳng tắp. Cây bulô được trồng dọc theo những con đường rải cát, cúc tây và thược dược mọc trên mặt đất màu mỡ. Có những hồ nhỏ láng bê tông dành cho các loài thủy cầm và cả hồ nước có bậc lên xuống thuận tiện dành cho việc giặt giũ, các khu nhà phụ dành cho người Đức, 1 tiệm bánh, 1 tiệm cắt tóc, garage, trạm xăng và các kho. Trại Majdanek ở Lublin và hàng tá trại lao động khác được bọn Gestapo lập ra để hoạt động lâu dài và được quản lý chặt chẽ, được tổ chức theo cùng 1 kiểu với những khu vườn nhỏ, vòi phun nước và đường láng bê tông.
Trại No. 1 tồn tại từ mùa xuân năm 1941 đến 23/7/1944. Những tù nhân còn sống bị thủ tiêu khi họ đã có thể nghe thấy tiếng ì ầm từ xa vọng tới của pháo Soviet. Sáng sớm ngày 23/7, lính gác và lính SS uống 1 chút rượu schnapp để lấy dũng khí rồi bắt đầu tiến hành xóa sổ khu trại. Đến tối, tất cả tù nhân đã bị giết và chôn xong.
1 thợ mộc từ Warsaw, Max Levit, đã sống sót. Anh ta bị thương và nằm dưới các xác chết của bạn tù đến đêm rồi bò vào rừng. Anh ta kể cho chúng tôi mọi chuyện diễn ra như thế nào, khi đó anh ta vẫn nằm dưới 1 con hào và nghe thấy 1 nhóm 30 trẻ em trai là tù nhân trong trại hát bài "Đất Mẹ bao la của tôi" ngay trước khi bị hành quyết. Anh ta còn nghe thấy 1 đứa trẻ thét lên: "Stalin sẽ báo thù cho chúng tao!". Anh ta cũng nghe thấy thủ lĩnh nhóm trẻ, Leib Tóc Đỏ, 1 chú bé được cả trại yêu quý, khi ngã xuống hào sau loạt đạn còn chồm lên 1 chút và nói: "Cha thằng cảnh vệ, mày bắn trượt rồi. Bắn lại đi, 1 lần nữa xem nào!"
Giờ chúng tôi đã biết được toàn bộ câu chuyện về "Trật tự Đức" (Ordnung) trong trại lao động này ... Chúng tôi biết về công việc tại khu khai thác cát, về những người ko thực hiện đúng quy định đã bị ném xuống hầm từ trên vách đá. Chúng tôi biết được khẩu phần ăn: 170g bánh mì và nửa lít nước bẩn mà chúng gọi là súp. Chúng tôi biết thế nào là chết đói, về những người bị phù thũng được đưa ra ngoài hàng rào thép gai bằng xe cút kít để bắn. Chúng tôi biết về các cuộc truy hoan quái đản của bọn Đức, tại đó chúng hãm hiếp các cô gái rồi bắn họ ngay sau đó, những tên Đức say xỉn cắt vú phụ nữ bằng dao và ném nhiều người từ trên cửa sổ tầng thượng cao 6m xuống đất, đám khách khứa cũng say xỉn đem 10 - 15 tù nhân vào khu nhà của lính để thực hành các kiểu giết người 1 cách chậm rãi trong suốt đêm: bắn vào tim, sau gáy, mắt, mồm, thái dương ... Chúng tôi biết về viên trưởng trại, 1 tên Đức gốc Hà Lan tên là Zan Eilen*, 1 kẻ giết người, yêu thích những con ngựa tốt, tay lái lụa và phóng đãng. Chúng tôi biết về Stumpfe, kẻ mà mỗi khi giết 1 tù nhân hoặc chứng kiến 1 vụ hành quyết lại nổi hứng cười phá lên. Hắn được đặt biệt danh là "Tiếng cười chết chóc" ... Chúng tôi biết về tên Đức 1 mắt đến từ Odessa, Svidersky, biệt danh "Thầy giáo búa". Hắn được xem là chuyên gia giết người máu lạnh, là kẻ trong vài phút đã giết 15 đứa trẻ từ 8 đến 13 tuổi bị kết tội ko hoàn thành công việc. Chúng tôi biết về tên SS gầy còm Preie trông giống 1 người Digan biệt danh "Lão già". Hắn luôn có vẻ buồn rầu và trầm lặng. Hắn giải buồn bằng cách ngồi bên hố rác của trại rình các tù nhân trốn tới đây để nhặt vỏ khoai tây ăn. Hắn bắt họ mở mồm ra rồi bắn vào đó. Chúng tôi biết tên của những tay chuyên gia giết người Schwarz và Ledeke, trò giải trí của chúng là bắn vào những tù nhân đang đi bộ về khi ngày làm việc kết thúc lúc trời nhá nhem tối. Tất cả bọn chúng ko còn 1 chút tính người nào. Đầu óc, trái tim, tâm hồn, ngôn từ, hành động và những thói quen của chúng đều méo mó như 1 bức tranh đả kích nhưng vẫn làm chúng ta nhớ lại những đặc điểm, suy nghĩ, tình cảm và thói quen thông thường của người Đức.
* Ở đây Grossman vẫn đang nói về Treblinka I. Viên sĩ quan chỉ huy đầu tiên của Treblinka II là Obersturmfuhrer (cấp bậc trong các lực lượng bán vũ trang phát xít như SS, SA, Gestapo ... thấp hơn đại đội trưởng nhưng cao hơn trung đội trưởng, đôi khi được dùng để chỉ trung đội trưởng SS Waffen - Maseo) Imfried Eberl, đến tháng 8/1942 Obersturmfuhrer Franz Stangl thay thế, chỉ huy phó là Kurt Franz.
Quy định của trại, giấy tờ của những tên sát nhân, những trò đùa quái đản đôi khi lại được 1 tên Đức say xỉn thực hiện, những bài ca được hát lên giữa vũng máu, những lời chúng luôn nói với những người tù bất hạnh, những lời giảng đạo, những câu kinh được in ngay ngắn trên những mảnh giấy đặc biệt - tất cả là những quái thai đáng khinh bỉ của truyền thống sôvanh Đức; của tính kiêu ngạo, ích kỷ, tự phụ, cứng nhắc Đức; của sự lạnh lùng sắt đá, lãnh đạm trước số phận của mọi sinh vật trên Trái Đất xuất phát từ niềm tin độc ác rằng âm nhạc, thơ ca, ngôn ngữ, luật pháp, hố xí, bầu trời, nhà cửa ... Đức đều là thứ cao cấp nhất trong Hoàn Vũ.
Tuy nhiên những người sống ở Trại No. 1 đều biết rõ rằng còn có những thứ khủng khiếp hơn khu trại này hàng trăm lần. Tháng 5/1942, người Đức bắt đầu xây dựng 1 trại khác, thực chất là 1 cái lò sát sinh.
Quá trình xây dựng diễn ra nhanh chóng. Hơn 1.000 công nhân đã được sử dụng. Theo kế hoạch của Himmler, việc xây dựng khu trại này phải được giữ bí mật tuyệt đối và ko 1 ai có cơ may sống sót mà ra khỏi trại ... Bọn lính canh nổ súng mà ko báo trước cả những người vì rủi ro nào đó mà đi gần trại ở khoảng cách dưới 1km ... các nạn nhân được đưa lên tàu hỏa rồi tới 1 tuyến đường ray đặc biệt mà ko hề biết rằng số phận mình đã đến lúc cáo chung. Thậm chí ngay cả lính áp tải trên tàu cũng bị cấm đến gần khu vực hàng rào thứ 2 của trại...
Khi các nạn nhân đã xuống hết khỏi các toa tàu để bị đưa vào lò sát sinh, viên trưởng trại sẽ gọi điện để 1 chuyến tàu mới có thể đến, đoàn tàu rỗng thì chạy tiếp 1 đoạn đến khu mỏ khai thác cát để chất đầy cát cho chuyến về. Lợi thế của Treblinka là rất rõ ràng, vị trí này thuận tiện để tiếp nhận các chuyến tàu chở đầy nạn nhân đến từ khắp nơi: phía bắc, phía nam, phía đông hay phía tây.
Các chuyến tàu đã qua lại đây suốt 13 tháng. Mỗi chuyến tàu có 60 toa và trên mỗi toa có đánh số: 150, 180 hoặc 200. Đó là số người được chở trên mỗi toa. Các công nhân hỏa xa và nông dân địa phương đã bí mật đếm số lượng các chuyến tàu đó. Những nông dân làng Wulka (làng gần khu trại nhất) ... đã nói với tôi rằng có những hôm 6 chuyến tàu đã đi qua tuyến đường sắt Sedletz này và gần như ko có ngày nào ko có ít nhất 1 đoàn tàu qua đây. Sedletz là tuyến đường sắt để phục vụ duy nhất cho trại Treblinka.
Bản thân khu trại với hàng rào bao quanh, các kho chứa đồ của những nạn nhân đã bị hành quyết, ga tàu hỏa và các nhà phụ chỉ chiếm 1 diện tích rất nhỏ chiều rộng 80m và chiều dài 600m. Nếu ai đó có chút nghi ngờ dù là nhỏ nhất về số phận của hàng triệu người * đã bị đưa đến đây thì chỉ cần nghĩ xem nếu họ ko bị bọn Đức giết ngay sau khi tới nơi thì họ có thể ở đâu? Số người này có thể tương đương dân số 1 nước nhỏ hoặc 1 thủ đô Châu Âu. Diện tích trại cũng quá nhỏ ngay cả là để những người bị đưa tới đây chỉ sống thêm vài ngày sau khi tới nơi. Ko có đủ phòng trong vòng rào kẽm gai cho dòng người đổ đến từ khắp Châu Âu, từ Ba Lan và Belorussia. Trong 13 tháng đó, tức là 396 ngày, các đoàn tàu rời trại chỉ chở theo cát hoặc để ko, ko có bất cứ 1 ai trong những người đã đến Trại No. 2 quay về ... Hỡi những tên sát nhân, họ ở đâu, những người mà chúng mày đã mang đến đây ấy?
* Grossman, trên cơ sở những ước lượng của ông về số lượng các đoàn tàu và sức chở của chúng mà ông nghe được, đã tính rằng có khoảng 3 triệu người đã bị giết tại đây. Nghiên cứu sau này đã cho ra con số từ 750.000 đến 880.000 nạn nhân. Lý do con số ước lượng của Grossman quá lớn so với thực tế rất đơn giản: Ông đã đúng về số lượng toa là 60 cho mỗi đoàn tàu nhưng có vẻ đã ko phát hiện ra chiều dài nhà ga trong trại quá ngắn cho chúng. Các đoàn tàu đã phải dừng ở vài chỗ để cắt lại 1 số toa và mỗi lần chỉ có 1 phần đi vào ga. Tức là ko phải có 5 đoàn tàu với 60 toa đến trại mỗi ngày mà thường mỗi đoàn tàu đều được chia làm 5 phần.
Mùa hè năm 1942, giai đoạn quân đội phát xít có nhiều thắng lợi lớn, được xem là thời điểm thuận lợi để tiến hành giai đoạn 2 của kế hoạch diệt chủng ... Vào tháng 7, những chuyến tàu đầu tiên bắt đầu đến Treblinka từ Warsaw và Chenstohova. Chúng nói với mọi người rằng họ được đưa tới Ukraine để làm nông. Mỗi người được phép mang theo 20kg hành lý và lương thực. Trong nhiều trường hợp, bọn Đức đã buộc các nạn nhân mua vé tàu tới ga Ober - Maidan, đó là cái tên được nhà chức trách Đức dùng làm vỏ bọc cho Treblinka. Lý do phải đặt cho Treblinka cái tên mới vì đã bắt đầu có tin đồn lan truyền khắp Ba Lan về địa điểm khủng khiếp này, bọn SS cũng dừng sử dụng từ Treblinka khi buộc mọi người lên tàu. Tuy nhiên, cách mà mọi người được đối xử trên tàu đã khiến các họ mất đi mọi hy vọng về số phận tương lai. Tối thiểu là 150 nhưng thường là từ 180 đến 200 người bị tống lên mỗi toa hàng. Trong suốt hành trình, đôi khi chỉ kết thúc sau 2 - 3 ngày, các tù nhân ko hề được cung cấp nước. Mọi người khổ vì khát tới mức phải uống cả nước tiểu của chính mình. Lính canh bán nước uống với giá 100 zloty mỗi hớp và thường là chỉ nhận tiền của mọi người nhưng ko hề đưa lại nước. Mọi người bị nhồi nhét đè cả vào nhau và có khi phải đứng suốt quãng đường. Những người có vấn đề về tim thường chết trước khi hành trình kết thúc, đặc biệt là trong những ngày hè nóng nực. Do cửa bị chốt trong suốt thời gian tàu chạy cho đến khi hành trình kết thúc nên các xác chết bắt đầu thối rữa làm bốc mùi khắp toa ... Nếu 1 hành khách bật diêm trong đêm, lính canh sẽ bắn vào thành toa xe ...
Các đoàn tàu đến Treblinka từ các nước châu Âu khác mang phong cách khác hẳn *. Mọi người trên tàu ko hề được nghe gì về Treblinka và đến phút cuối vẫn tin rằng họ được đưa đi làm việc ... Các đoàn tàu đến từ các nước châu Âu khác ko cần lính gác mà chỉ có các nhân viên hỏa xa bình thường, chúng có cả các toa giường nằm và toa ăn. Hành khách mang theo cả hòm xiểng, vali và cũng được cho ăn uống đầy đủ. Con cái họ chạy nhảy lung tung tại các ga mà đoàn tàu dừng lại, hỏi xem còn bao xa nữa mới tới Ober - Maidan ...
* Theo ước tính của Trung tâm Simon Wiesenthal có khoảng 876.000 người đã bị giết tại Treblinka. Con số này bao gồm 738.000 người Do Thái từ Generalgouvernement (phần đất Ba Lan bị Đức chiếm từ tháng 9/1939, đến tháng 8/1941 mở rộng ra toàn Ba Lan - Maseo), trước hết là từ các khu người Do Thái ở Warsaw; 107.000 người từ Bialystok; 29.000 người Do Thái từ các nơi khác của châu Âu; và 2.000 người Digan.
Thật khó nói bị đưa đến cái lò sát sinh này theo cách nào thì đỡ kinh khủng hơn: Biết rằng mình đang đến mỗi lúc 1 gần cái chết? Hay hoàn toàn ko biết gì, chỉ liếc nhìn từ khung cửa sổ 1 toa hành khách tiện nghi khi những kẻ trên sân ga Treblinka đang gọi điện thoại về trại thông báo chi tiết về chuyến tàu vừa tới và số lượng người trong đó.
Bề ngoài, để lừa được đến cùng những người đến từ các nước châu Âu khác, điểm đến chết chóc này được ngụy trang như 1 ga tàu khách. Trên sân ga vốn có sẵn chừng hai chục toa tàu có vẻ như đang được bốc dỡ có hẳn 1 tòa nhà ga với đầy đủ quầy bán vé, nơi gửi hành lý và quán ăn. Có cả mũi tên chỉ đường ở mọi nơi, trên đó ghi "Đi Bialystok", "Đi Baranovichi" hay "Đi Volokovysk" v.v... Thậm chí còn có cả ban nhạc chơi trong nhà ga khi có tàu tới và tất cả các nhạc công đều ăn vận bảnh choẹ. Nhân viên mặc đồng phục đường sắt thu vé của các hành khách và đưa họ xuống sân ga.
3 - 4.000 con người tay xách nách mang đi xuống ga, có cả người già và người ốm, các bà mẹ bồng con nhỏ trên tay, những đứa trẻ lớn hơn thì được giữ gần bố mẹ, tất cả tò mò nhìn sân ga. Có gì đó như là điềm gở trong sân ga này khi mặt đất có vẻ như đã bị dẫm đạp bởi hàng triệu người. Ánh mắt lo lắng của mọi người nhanh chóng nhận ra có điều gì đó đáng sợ. Có vài đồ vật bị bỏ lại trên mặt đất, hình như sân ga vừa được quét dọn vội vàng chỉ vài phút trước khi các hành khách xuất hiện - 1 bọc quần áo, 1 chiếc hộp mở toang, 1 bàn chải cạo râu, vài cái chảo tráng men. Sao chúng lại bị bỏ ở đây? Và tại sao nhà ga này lại là điểm cuối tuyến đường vì chẳng còn đường sắt dẫn đi đâu nữa, bên ngoài hàng rào thép gai cao 3m chỉ có những bụi cỏ vàng ệch. Những tuyến đường sắt dẫn đi Bialystok, đi Sedlez, đi Warsaw, Volokovysk ở đâu? Và rồi bỗng xuất hiện những tay lính gác vừa cười đểu cáng vừa nhìn như muốn đo đạc đánh giá từng người: những người đàn ông đang chỉnh lại cà vạt, những bà già gọn gàng sạch sẽ, những chú bé mặc sơ mi lính thuỷ, những cô gái mảnh khảnh đã cố giữ cho quần áo phẳng phiu trong suốt cuộc hành trình dài, những bà mẹ trẻ đang âu yếm chỉnh lại lớp chăn bọc quanh những đứa con, những chú nhóc đang nhăn mặt ... Cái gì sau bức tường đồ sộ cao 6m được che phủ dày đặc bởi những cành thông vàng và chăn đệm kia? Ngay những tấm chăn đó cũng là những tín hiệu cảnh báo: chúng có đủ màu sắc, được nhồi bông và làm từ lụa hay satin. Chúng làm những người mới đến nhớ đến những tấm chăn lông vịt mang theo. Sao những chăn đệm đó lại có ở đây? Ai đã mang chúng đến? Và chủ nhân những tấm chăn đó đâu? Tại sao họ lại ko cần đến chúng nữa? Rồi cả những người đeo băng xanh kia là ai? Mỗi người nhớ lại những ý nghĩ vừa chợt xuất hiện trong đầu, những nỗi sợ hãi, những lời xì xào đồn đại. Ko, ko, đó ko thể là sự thật! Mọi người cố thoát khỏi những suy nghĩ ghê sợ. Những người mới tới cũng ko có nhiều thời gian để sợ hãi khi tất cả mau chóng được xếp vào hàng. Tất nhiên lúc nào cũng có chút chậm trễ. Trên mỗi chuyến tàu đều có những người tàn tật, ốm yếu, già cả chỉ có thể lê bước 1 cách khó khăn. Nhưng cuối cùng tất cả đã ở trong sân ga.
1 hạ sĩ quan SS giải thích to và rõ ràng rằng những người mới tới phải bỏ hành lý lại sân ga rồi vào khu nhà tắm; chỉ được mang theo giấy tờ cá nhân, tài sản có giá trị và 1 túi nhỏ đồ dùng khi đi tắm. Hàng tá câu hỏi lập tức xuất hiện trong đầu những người đang đứng trên sân ga: liệu họ có thể mang theo đồ lót sạch, liệu những hành lý đang chất đống trong sân ga có bị lẫn lộn hay mất mát? Thế nhưng 1 lực đẩy kỳ lạ đã khiến họ bước đi, vội vàng nhưng lặng lẽ, ko hỏi han, ko nhìn lại đằng sau, tới thẳng chiếc cổng trên bức tường thép gai cao 6m được ngụy trang bằng những cành cây.
Họ đi qua những chướng ngại vật chống tăng, 1 hàng rào thép gai cao gấp 3 chiều cao 1 người bình thường, 1 con hào chống tăng rộng 3m. Rồi thêm 1 hàng rào thép gai nữa, lần này là loại dây thép gai nhỏ hơn được quấn thành vòng thả trên mặt đất, chúng có tác dụng làm mắc kẹt chân người nào định chạy qua giống như chân ruồi trong mạng nhện. Rồi lại thêm 1 bức tường có chăng dây thép gai cao nhiều mét nữa. Và càng ngày cảm giác khủng khiếp và hoàn toàn tuyệt vọng càng xâm chiếm suy nghĩ của những người bất hạnh: ko thể chạy trốn, quay lui hay chống cự. Những họng súng máy đang chĩa vào họ từ các chòi canh. Gọi người khác giúp đỡ? Nhưng xung quanh chỉ có những tên SS và lính gác cầm tiểu liên, lựu đạn và súng ngắn. Chúng là sức mạnh. Trong tay chúng là xe tăng, máy bay, đất đai, thành phố, bầu trời, đường tàu hoả, luật pháp, báo chí, truyền thông. Cả 1 thế giới câm lặng, bị đàn áp, bị biến thành nô lệ bởi 1 lũ kẻ cướp mặc áo nâu nắm giữ quyền lực. London đã im lặng và New York cũng vậy. Chỉ có ở đâu đó bên bờ sông Volga, cách đây nhiều nghìn km, những cỗ pháo Soviet đang nhả đạn.
Cùng lúc đó, trên sân ga, 1 nhóm công nhân tay đeo băng xanh đang lặng lẽ và thành thạo mở các vali và bao gói. Tư trang của những người mới tới được phân loại và đánh giá. Chúng ném xuống đất những bộ đồ khâu được sắp xếp cẩn thận của ai đó, những cuộn chỉ, những bộ đồ lót trẻ em, áo lót, khăn trải giường, quần áo trẻ em, dao ăn, đồ cạo râu, thư từ, ảnh chụp, nước hoa, gương, mũ, áo valenki trần bông dùng khi trời lạnh, giày phụ nữ, bít tất, dây đăng ten, áo ngủ, những gói bơ, cafe, những lọ ca cao, khăn trùm đầu, giá nến, sách, bánh bít cốt, đàn viôlông, nôi trẻ con. Những công nhân này cần kỹ năng để có thể phân loại hàng nghìn đồ vật trong vài phút và định giá chúng. 1 số thứ được chọn ra để gửi về Đức. Số khác - những thứ đồ hạng hai, cũ hoặc đã bị sửa chữa - sẽ phải đốt đi. Công nhân nào làm sai, ví dụ để 1 chiếc vali giả da cũ vào đống đồ đa được chọn để gửi đi Đức, hay ném 1 đôi tất Paris còn nguyên tem nhà sản xuất vào đống bít tất đàn ông cũ, sẽ gặp phải nhiều rắc rối. Mỗi công nhân chỉ có thế nhầm lẫn 1 lần.
40 tên SS và 60 Wachmanner làm công việc "vận chuyển" này *. Đó là những gì chúng làm trong giai đoạn đầu mà tôi vừa mô tả: đón tàu, đưa mọi người xuống "nhà ga", theo dõi các công nhân phân loại và đánh giá hành lý. Khi làm việc này, các công nhân thường bí mật bỏ mồm những miếng bánh mì, đường hay kẹo tìm thấy trong các gói thức ăn. Điều đó ko được phép. Tuy nhiên việc rửa tay và mặt bằng nước hoa sau khi kết thúc công việc thì lại được phép vì thiếu nước và chỉ có bọn Đức là lính gác được dùng nước để rửa ráy. Và khi các nạn nhân, lúc này vẫn còn sống, chuẩn bị vào nhà tắm thì hành lý của họ đã bị phân loại, những thứ có giá trị được cất vào kho. Còn lại hàng đống thư từ, ảnh chụp trẻ con mới sinh, anh em, chồng chưa cưới, lễ kỷ niệm đám cưới vàng, tất tật hàng ngàn thứ quý báu, vô cùng quan trọng với người sở hữu chúng nhưng chỉ là rác rưởi với những kẻ sở hữu Treblinka, sẽ được chất đống và chở đi đổ trong những hố rác khổng lồ, nơi đã có sẵn hàng trăm ngàn thư từ, bưu thiếp, danh thiếp, ảnh, những mảnh giấy đầy nét vẽ trẻ con nguệch ngoạc tương tự. Sân ga được quét qua loa và lại sẵn sàng đón nhận 1 chuyến hàng mới gồm những con người đã bị kết án tử.
Nhưng mọi việc ko phải bao giờ cũng diễn ra suôn sẻ như tôi vừa tả. Các cuộc nổi loạn thỉnh thoảng cũng nổ ra khi các nạn nhân biết được điểm đến của họ là gì. 1 nông dân địa phương tên là Skrzeminski đã 2 lần thấy mọi người xông ra khỏi tàu, quật ngã lính canh và chạy về phía rừng. Tất cả họ đều bị giết đến người cuối cùng. Trong 1 lần như vậy, 1 người đàn ông cắp theo 4 đứa trẻ tuổi từ 4 đến 6 và tất cả đều bị giết. 1 bà nông dân tên là Maria Kobus cũng kể về nhiều vụ nổi loạn tương tự. 1 lần như vậy có 60 người đã chạy được tới rừng nhưng vẫn bị giết.
Nhưng nếu ko có gì xảy ra mỗi đợt tù nhân mới chuyển tới sẽ được đưa vào bãi thứ 2 nằm bên trong hàng rào trại. 1 đồn lính lớn nằm ngay giữa bãi, và 3 cái khác nằm bên tay phải. 2 trong số đó đồng thời là kho quần áo, cái thứ 3 là kho chứa giày dép. Xa hơn nữa, phía tây trại là nhà cho bọn SS, lính gác, kho lương thực và sân trại. Ô tô và xe thiết giáp đậu trong sân. Tất cả trông như những trại thông thường khác, giống như Trại No. 1. Ở góc đông nam sân trại có 1 hàng rào thưa làm bằng cành cây cắm xuống đất, bên trên cắm 1 chiếc ủng ghi chữ "Viện điều dưỡng". Tất cả những người yếu ớt và bệnh tật sẽ được lựa ra từ trong đám đông và đưa vào đây. 1 viên bác sĩ đeo tạp dề trắng và băng chữ thập đỏ trên tay trái tới gặp họ. Tôi sẽ nói sau về những gì diễn ra tại cái viện điều dưỡng này. Tiếp đó, bọn Đức dùng những khẩu súng ngắn tự động Walther để giải thoát cho những người già cả khỏi phải chịu thêm những gánh nặng của cuộc đời.
Điểm mấu chốt trong giai đoạn 2 của việc chuyển giao những người mới đến này là trấn áp ý chí họ bằng cách liên tục ra các mệnh lệnh ngắn và nhanh. Bọn chỉ huy ra lệnh bằng giọng mà Quân đội Đức rất tự hào: giọng nói đó chứng minh dân tộc Đức là thượng đẳng. Âm "r" được phát mạnh ra từ cổ họng nghe giống tiếng roi quất, những tiếng quát "Achtung!" ** vang khắp đám đông. Trong sự im lặng nặng nề, tiếng những tên Scharfuhrer *** vang lên to, rõ ràng, dằn từng tiếng. Những tiếng đó bọn chúng đã tự học và nhắc lại nhiều lần mỗi ngày, trong nhiều tháng: "Đàn ông ở đây! Phụ nữ và trẻ em cởi quần áo trong doanh trại bên trái!"
* Phần lớn các báo cáo cho rằng công việc tại Treblinka được tiến hành bởi khoảng 25 tên SS và 100 lính gác Wachmanner người Ukraina, tuy vậy 1 số báo cáo khác như bản báo cáo này của Grossman có lẽ đã tính luôn số lính gác trên tàu hỏa ko thuộc biên chế trại Treblinka. Grossman có lẽ đã ko phát hiện ra sự thật rằng lính Wachmanner đều là người Ukraina, vì vậy ông gọi là "lính SS" và "cảnh sát". Các công nhân được chọn từ các tù nhân Do Thái đến từ trước chỉ được sống thêm vài tuần rồi cũng bị giết nốt.
** Achtung!: Chú ý! (tiếng Đức - Maseo)
*** Cấp hạ sĩ quan SS tương tự như thượng sĩ.
Theo lời các nhân chứng, đó thường là lúc những cảnh tượng khủng khiếp bắt đầu. Những cảm nhận về tình mẫu tử, nghĩa vợ chồng, lòng hiếu thảo nói với mọi người rằng họ đang nhìn thấy nhau lần cuối. Những cái nắm tay, những nụ hôn, lời cầu phúc, nước mắt, những lời ngắn gọn mà dưới lớp vỏ ngôn ngữ người ta gửi cho nhau toàn bộ tình yêu, sự đau khổ, xúc động, tuyệt vọng. Những tay chuyên gia tâm lý SS biết cách cắt đứt những cảm giác đó ngay lập tức, dập tắt chúng. Những nhà tâm lý học tử thần đó biết những quy luật thông thường đã được chứng minh là đúng trong tất cả các lò sát sinh trên thế giới. Thời điểm cha mẹ lìa con, ông bà lìa cháu, vợ lìa chồng này chính là lúc mấu chốt, ngay lúc đó những tiếng quát "Achtung! Achtung!" lại vang khắp đám đông. Đó chính là thời điểm thích hợp để làm rối trí mọi người 1 lần nữa, reo rắc hy vọng cho họ, nói với họ những quy định chết chóc có thể cho họ giữ được mạng sống. Từng từ được nói ra nghe như tiếng kèn trumpet:
"Phụ nữ và trẻ em phải cởi giầy dép khi vào doanh trại. Bít tất bỏ vào trong giầy. Bít tất trẻ con bỏ trong sandal, ủng hay giầy. Giữ gọn gàng!" Và ngay sau đó là mệnh lệnh tiếp theo: "Vào nhà tắm, chỉ được mang theo giấy tờ tùy thân, tiền bạc, 1 khăn tắm và xà phòng. Tôi nhắc lại ..."
Trong doanh trại nơi phụ nữ cởi quần áo đã có những thợ cắt tóc. Những người phụ nữ trần truồng bị cắt trụi tóc bằng tông đơ. Tóc giả bị gỡ khỏi đầu các bà già. 1 hiện tượng tâm lý khủng khiếp diễn ra: theo các thợ cắt tóc, đối với phụ nữ, việc cắt tóc chết chóc này là bằng chứng rõ rệt nhất cho việc họ chuẩn bị được tắm hơi (banya). Các cô gái dùng tay phủi tóc xuống và đôi khi hỏi: "Lần sau bạn có cắt tóc ở đây nữa ko? Bạn cắt tóc ko bằng phẳng lắm." Phụ nữ thường cảm thấy thoải mái sau khi được cắt tóc, và hầu như tất cả những gì có trong doanh trại là xà phòng và những tấm khăn tắm. 1 số cô gái trẻ bật khóc tiếc thương cho những bím tóc dài và đẹp của mình. Việc cắt tóc đó là để làm gì? Nhằm mục đích đánh lừa những phụ nữ đó? Ko, nước Đức cần số tóc đó. Tóc là 1 thứ nguyên liệu. Tôi đã hỏi nhiều người, người Đức làm gì với hàng đống tóc được cắt từ mái đầu của những xác chết còn sống đó? Mọi lời chứng đều cho biết những đống tóc khổng lồ đủ kiểu đen, vàng, quăn, tết bím đó đều được tẩy sạch, bỏ vào túi và gửi về Đức. Mọi nhân chứng đều xác nhận đúng là tóc được đóng trong túi gửi về Đức. Chúng được dùng làm gì? Ko ai trả lời được câu hỏi đó. Chỉ khi viên trưởng trại nêu trong bản cung của hắn rằng tóc được dùng trong hải quân để nhồi đệm hoặc bện dây cáp cho tàu ngầm, tôi nghĩ mọi việc mới trở nên sáng tỏ.
Đàn ông cởi đồ ngay trên sân. Thông thường, bọn Đức chọn 150 - 300 người khỏe mạnh trong chuyến tàu đến đầu tiên buổi sáng. Họ sẽ được sử dụng để chôn các xác chết và thường sẽ bị giết vào hôm sau. Đàn ông phải cởi quần áo thật nhanh gọn, cởi giầy và tất theo hiệu lệnh, gấp gọn áo lót, áo khoác và quần dài. Quần áo và giày dép được nhóm công nhân thứ 2 phân loại, họ mang băng tay đỏ để phân biệt với những công nhân làm công việc "vận chuyển".
Quần áo giày dép phù hợp để chuyển về Đức lập tức được đưa vào kho. Mọi nhãn mác bằng kim loại hay vải sẽ phải được gỡ bỏ cẩn thận. Những thứ còn lại sẽ bị đốt hoặc chôn lấp. Cảm giác lo lắng tăng lên từng phút. Có mùi gì kỳ lạ và đáng lo ngại lúc này vẫn còn bị át đi bởi mùi khí chlorine. Số lượng khổng lồ của lũ ruồi quấy nhiễu mọi người cũng thật kỳ lạ. Tất cả chúng đến từ đâu, ngay tại đây, từ rừng thông vây quanh hay từ dưới mặt đất bị dẫm đạp này? Mọi người thở hổn hển, sợ hãi, run rẩy, nhìn chăm chú vào từng thứ dù là nhỏ nhất hy vọng chúng có thể cho họ lời giải đáp, giúp họ hiểu, vén lên 1 chút bức màn bí mật về những gì đang chờ đợi họ. Và tại sao lại có tiếng máy xúc hạng nặng gầm rú ở phía nam?
Tiếp đó 1 thủ tục nữa bắt đầu. Mọi người trong tình trạng trần truồng bị dẫn tới quầy thu tiền mặt và trình các giấy tờ tùy thân, tài sản có giá trị theo yêu cầu. Và 1 lần nữa, những tiếng quát khủng khiếp, như thôi miên vang lên: "Achtung! Achtung!" ... Che dấu tài sản sẽ bị trừng trị bằng cái chết ... "Achtung! Achtung!" 1 Scharfuhrer ngồi trong 1 căn lán nhỏ đập đập 1 thanh gỗ, lính SS và Wachmanner đứng sau hắn, cạnh lán là những thùng gỗ, các tài sản có giá trị được ném vào đó: 1 thùng tiền giấy, 1 thùng tiền xu, 1 thùng chứa đồng hồ, nhẫn, khuyên tai, trâm cài tóc, vòng tay. Các giấy tờ tùy thân, những thứ chẳng ai trên thế giới này còn cần đến nữa, bị vứt xuống đất - đó là những giấy tờ của những thân xác trần truồng sẽ nằm dưới đất đen trong vòng 1h nữa. Vàng và các tài sản giá trị mới là thứ chủ yếu cần được phân loại cẩn thận - hàng tá thợ kim hoàn xác định độ nguyên chất của các loại quý kim, giá trị của các đồ trang sức, độ trong suốt của kim cương. Thật kỳ lạ là những kẻ ghê tởm này cần dùng tới đủ mọi thứ, thậm chí cả giấy và vải - bất kỳ thứ gì có thể được bất kỳ ai cần tới, đều có thể là quan trọng và cần thiết đối với chúng. Chỉ có thứ quý giá nhất trên thế giới, cuộc sống con người, là bị chúng chà đạp dưới gót giày.
Chính tại đây, trong quầy thu tiền này, thời khắc bước ngoặt đã điểm. Việc làm khổ các nạn nhân bằng những lời dối trá chấm dứt; trong vài phút các nạn nhân đi từ hy vọng đến tuyệt vọng, từ ảo tưởng được sống đến nhìn thấy cái chết ... Đến giai đoạn cuối cùng này, giai đoạn cướp bóc những xác chết còn đang sống, bọn Đức chuyển sang đối xử với các nạn nhân 1 cách hết sức thô bạo. Chúng giật những chiếc nhẫn khỏi ngón tay của các nạn nhân, giật khuyên tai ra khỏi tai. Chính vào lúc đó, dây chuyền giết người này cần tới phương pháp mới để thực hiện công việc 1 cách hiệu quả. Đó là lý do những tiếng quát "Achtung!" được thay bằng tiếng rít: "Schneller! Schneller! Schneller!" Nhanh, nhanh lên! Chạy tới chỗ chết đi!
Chúng tôi được biết thực tế tàn khốc trong những năm đó là khi các nạn nhân rơi vào tình trạng trần truồng họ mất hoàn toàn sức chống cự, khả năng đấu tranh với hoàn cảnh. Khi cơ thể trở nên trần trụi, người ta ngay lập tức mất hết sức sống và chấp nhận số phận. Ngay cả những người vốn hết sức khao khát được sống cũng trở nên thụ động. Nhưng để cho chắc, những tên SS còn áp dụng thêm vào giai đoạn cuối của dây chuyền giết người này 1 phương pháp tàn ác nữa để đẩy những nạn nhân vào tình trạng u mê, 1 trạng thái shock tâm lý hoàn toàn. Chúng làm như thế nào? Bằng những hành động tàn ác đến mức phi lý, điên loạn được thực hiện bất thình lình. Những nạn nhân trần truồng đã mất tất cả mọi thứ nhưng vẫn còn đông hơn những con quái vật bận đồng phục SS hàng ngàn lần và vẫn còn thở, nhìn, suy nghĩ, tim họ vẫn còn đập. Những tên lính gác quật cho những bánh xà phòng và khăn tắm rơi khỏi tay các nạn nhân, xếp họ vào hàng, 5 người 1 hàng. Vừa làm chúng vừa quát: "Hande hoch! Marsch! Schneller! Schneller! Schneller!"
Họ bước xuống 1 con đường thẳng với hoa và cây linh sam trồng 2 bên. Con đường này dài 120m, rộng 2m và dẫn tới lò sát sinh. Dây thép gai chăng 2 bên đường, lính gác áo đen và bọn SS mặc áo nâu đứng đó vai chạm vai. Con đường được rải cát trắng và các nạn nhân phải đi trên đó với 2 tay giơ sau đầu, họ có thể nhìn thấy dấu chân còn mới trên mặt cát mềm: vết chân nhỏ nhắn của phụ nữ, nhỏ hơn nữa của trẻ em, vết chân vụng về của các cụ già. Những vết chân phù du trên mặt cát của hàng ngàn người đã bước qua đây, giống như 4.000 người đang bước lúc này, giống như hàng ngàn người khác sẽ lại bước qua sau 2h nữa, những người lúc này đang chờ đoàn tàu rẽ vào tuyến đường sắt dẫn vào rừng. Những người đang để lại vết chân nơi đây bước đi cũng giống như những người đã đi hôm qua, 10 hôm trước, 100 ngày trước, cũng giống những người sẽ đi ngày mai, 50 ngày sau, giống như mọi người đã đi trong suốt 13 tháng tồn tại của địa ngục Treblinka.
Bọn Đức gọi lối đi này là "Con đường có đi ko về". 1 tên dáng người nhỏ thó có họ là Sukhomil theo dõi mọi người trong suốt thời gian họ đi, hắn vừa nhăn nhở vừa kêu: "Các bé, các bé! Schneller! Schneller! Nước trong nhà tắm lạnh đấy. Schneller, Kinder, Schneller!" Và hắn phá lên cười, đứng lên ngồi xuống, nhảy nhót. Mọi người, 2 tay vẫn phải giơ lên, bước trong im lặng giữa 2 hàng lính gác, dưới những cây gậy, những họng súng, những chiếc dùi cui cao su. Trẻ con phải chạy để theo kịp người lớn. Nói về giai đoạn cuối cùng này, con đường đau khổ này, mọi nhân chứng đều nhắc tới sự hung bạo của 1 con quái vật đội lốt người có tên Zepf, 1 tên SS, chuyên gia giết trẻ con. Tên quái vật này có thân hình đồ sộ và rất khoẻ, hắn thường bất ngờ túm lấy 1 đứa bé nhấc khỏi hàng rồi đập đầu xuống đất như thể đứa bé là 1 cây gậy hoặc xé đứa bé ra làm đôi.
Công việc của Zepf rất quan trọng. Nó làm tăng sự kinh hoàng cho các nạn nhân khốn khổ và cho họ thấy sự tàn ác đến mức phi lý khiến ý chí và tinh thần của họ bị đè bẹp. Hắn là 1 cái đinh vít cần thiết trong cỗ máy vĩ đại của nước Đức phát xít.
Và tất cả chúng tôi đều cảm thấy hết sức ghê sợ, ko phải bởi tự nhiên đã sinh ra những con quái vật này. Có nhiều loại quái vật trên đời - ví dụ như Cyclop, quái vật 2 đầu, cũng như đủ loại quái vật thần thoại và kẻ ác đáng sợ tương tự. Thứ làm chúng tôi ghê sợ là những con quái vật này thay vì phải bị giam giữ riêng biệt và nghiên cứu như 1 hiện tượng tha hóa tâm lý lại sống bình thường trên đất nước này, thậm chí được coi là 1 công dân tích cực và cần thiết.
Quãng đường đi từ "quầy thu tiền" đến lò sát sinh mất khoảng 60 - 70 giây. Các nạn nhân, được hối thúc bởi những cú đánh và những tiếng quát inh tai "Schneller! Schneller!", đến bãi thứ 3 và dừng lại đó 1 lúc trong hoảng hốt. Trước mặt họ là 1 căn nhà đẹp xây bằng đá có những phần trang trí bằng gỗ trông giống 1 tòa lâu đài cổ. 5 bậc đá rộng dẫn tới 1 cái cổng thấp nhưng rất rộng, chắc chắn và được trang trí đẹp, bên lối vào có cả hoa trồng trong các chậu. Tuy nhiên ngoài việc đó ra tất cả mọi thứ xung quanh đều hỗn độn, người ta có thể thấy những đống đất mới đào ở mọi nơi. 1 chiếc máy xúc khổng lồ ném ra hàng tấn đất cát vàng trong tiếng nghiến ken két của những răng thép làm bụi bốc mù trời. Chiếc máy xúc này đào suốt từ sáng đến tối để tạo nên những hố chôn tập thể khổng lồ, tiếng gầm của nó trộn lẫn với tiếng sủa điên cuồng của hàng tá becgiê Đức.
2 tuyến đường ray khổ hẹp chạy 2 bên tòa nhà chết chóc đó, dọc theo đường ray những người đàn ông mặc áo khoác rộng thùng thình đang mang gì đó chất lên thùng những chiếc xe tải tự đổ. Cánh cổng rộng của tòa nhà chết chóc từ từ mở ra và 2 phụ tá của sếp Schmidth xuất hiện trên lối vào. Chúng đều là những kẻ tàn bạo và điên loạn, 1 tên cao, khoảng 30 tuổi, vai rộng, có gương mặt ngăm đen dữ dằn và tóc đen, tên kia trẻ hơn, lùn, tóc nâu vuốt keo, da mặt vàng vọt. Chúng tôi biết tên họ của những kẻ chống loài người đó. Tên cao cầm 1 đoạn ống dẫn gas to tướng dài độ 1m, tên kia vũ trang 1 thanh kiếm.
Ngay lúc đó, bọn SS thả lũ chó đã được huấn luyện ra. Lũ chó xông thẳng vào đoàn người, xé toạc cổ họng họ bằng hàm răng sắc nhọn. Bọn SS thì nện các nạn nhân bằng báng súng tiểu liên, xô đẩy những phụ nữ đang sợ chết khiếp và hét lên man rợ: "Schneller! Schneller!". 2 tên phụ tá của Schmidth đứng bên lối vào tòa nhà lùa các nạn nhân qua cánh cửa mở để vào phòng hơi ngạt.
Vào lúc đó 1 trong những sĩ quan chỉ huy Treblinka là Kurt Franz xuất hiện bên tòa nhà, dắt theo con chó của hắn tên Barry. Hắn đặc biệt huấn luyện con chó này khả năng lao vào các nạn nhân để xé tan đám đông, khiến họ chạy tán loạn mỗi người 1 phương. Kurt Franz đã có 1 công việc tốt ở trại này. Khởi nghiệp từ 1 hạ sĩ quan SS, hắn đã thăng tiến dần lên cấp sĩ quan khá cao là Untersturmfuher *.
Câu chuyện về những xác chết còn sống ở Treblinka, những người cho đến phút cuối cùng chỉ còn giữ được hình ảnh về những con người nhưng ko hề có tí tâm hồn người nào, làm rung động đến tận đáy con tim người nghe, khiến họ ko thể nào ngủ được. Đó là câu chuyện về những phụ nữ đã cố bảo vệ những đứa con bằng cách truyền cho chúng lòng can đảm trước cái chết, đó là câu chuyện về những người mẹ trẻ đã che chở những đứa bé bằng chính da thịt mình. Tôi đã được nghe câu chuyện về 1 cô bé 10 tuổi đã an ủi cha mẹ đang khóc than bằng những lời lẽ từng trải đến kỳ lạ, về 1 chú bé đã kêu lớn khi bước vào phòng hơi ngạt: "Mẹ ơi, đừng khóc! Nước Nga sẽ trả thù cho chúng ta!".
* Untersturmfuher là cấp sĩ quan SS tương đương trung úy trong quân đội. Kurt thực tế là phó của Stangl.
Tôi đã được nghe kể về hàng tá trường hợp những nạn nhân trước tình cảnh này bắt đầu phản kháng. Tôi được nghe về 1 người đàn ông trẻ đã đâm 1 sĩ quan SS bằng dao. Về 1 thanh niên khác bị đưa tới đây từ 1 khu Do Thái nổi dậy ở Warsaw đã làm được 1 điều kỳ diệu là giấu được 1 quả lựu đạn lấy được của bọn Đức ngay cả khi anh ta đã hoàn toàn trần truồng và ném nó vào đám đông những tên sát nhân. Chúng tôi cũng được nghe kể về trận chiến giữa nhóm những người nổi dậy với bọn lính gác và SS kéo dài suốt đêm. Những tiếng súng và lựu đạn nổ đến tận sáng và khi mặt trời lên, cả bãi đất phủ đầy xác những người nổi dậy ... Chúng tôi được nghe kể về 1 cô gái cao lớn đã giằng lấy khẩu carbine từ tay 1 tên Wachmann trên "Con đường có đi ko có về" để đánh lại hắn. Cô đã bị tra tấn và hành quyết rất dã man, tên của cô ko bao giờ được biết và ko ai được phép tỏ ra tôn trọng hành động đó.
Dân làng Wulka, làng gần Treblinka nhất, kể rằng thỉnh thoảng tiếng thét của những phụ nữ bị giết nghe quá khủng khiếp đến mức làm cả làng mất trí và bỏ chạy vào rừng để thoát khỏi những tiếng rú chói tai xuyên qua những vòm cây, qua bầu trời, qua mặt đất. Rồi đột nhiên tiếng rú im bặt, im lặng 1 lúc rồi lại tiếp tục hàng loạt tiếng rú mới thê thảm ko kém, chuyển thành tiếng rít ghê rợn thấu xương làm bủn rủn tâm hồn những người phải nghe chúng. Điều này xảy ra 3 - 4 lần mỗi ngày.
Tôi đã hỏi 1 tên đồ tể bị bắt tên là Sh. về những tiếng thét đó, hắn giải thích phụ nữ bắt đầu thét lên từ khi lũ chó được thả ra và cả đám tù nhân bị lùa vào lò sát sinh. "Họ có thể nhìn thấy cái chết đang đến gần, và đến với cả 1 đám đông lớn bọn họ. Họ bị đánh rất tàn bạo và lũ chó xé xác họ ra."
Sự im lặng đột ngột diễn ra khi cánh cửa phòng hơi ngạt đóng lại và tiếng thét lại nổi lên khi 1 nhóm tù nhân mới bị đưa tới tòa nhà chết chóc. Điều đó xảy ra 2, 3, 4 và đôi khi là 5 lần mỗi ngày. Đó là 1 dây chuyền đặc biệt của cỗ máy giết người này.
Cũng phải bỏ chút thời gian để trình bày về công nghệ giết người phức tạp ở Treblinka, tôi xin trình bày ngay. Nó đã phát triển từ từ và vẫn đang mọc lên những phân xưởng mới. Đầu tiên, 3 phòng hơi ngạt nhỏ đã được xây dựng. Khi việc xây dựng vẫn còn đang tiến hành đã có nhiều chuyến tàu chở tù nhân tới, chúng buộc phải giết họ bằng vũ khí lạnh - rìu, búa và dùi cui - khi phòng hơi ngạt chưa sẵn sàng, bọn SS ko muốn nổ súng vì tiếng súng có thể tiết lộ mục đích của Treblinka. 3 phòng hơi ngạt đầu tiên được xây bằng bêtông, rộng 5m x 5m và cao 190cm. Mỗi phòng có 2 cửa: 1 để đưa các nạn nhân vào và cái kia để lôi các xác chết ra. Cửa lôi xác ra này rất rộng, tới 2,5m. 3 phòng hơi ngạt được xây liền nhau thành 1 khối.
Tuy nhiên 3 phòng hơi ngạt này ko đủ công suất để thỏa mãn ý muốn của Berlin. Ngay sau khi 3 phòng này bắt đầu vận hành, chúng đã khởi công xây dựng tòa nhà tôi vừa mô tả ở trên. Các chỉ huy Treblinka rất thỏa mãn và tự hào vì đã bỏ xa kỷ lục về công suất của mọi "nhà máy giết người" của Gestapo. 700 tù nhân làm việc trong 5 tuần để xây dựng nhà máy giết người mới này. Khi việc xây dựng hoàn thành, 1 chuyên gia cùng với nhóm giúp việc từ Berlin tới lắp đặt hệ thống thiết bị cho các phòng hơi ngạt. 10 phòng hơi ngạt mới được đặt đối xứng 2 bên 1 hành lang rộng xây bằng bêtông ... mỗi phòng có 2 cửa ... các cửa để lôi xác mở ra 1 nhà ga đặc biệt được xây dựng ở cả 2 bên tòa nhà, những tuyến đường ray khổ hẹp chạy trong nhà ga này. Các xác chết bị chất đống trong ga rồi nhanh chóng được bốc lên các xe ô tô chạy trên loại đường ray này và được chở tới những hố chôn tập thể khổng lồ vẫn được những chiếc máy xúc khổng lồ đào suốt ngày đêm. Sàn phòng hơi ngạt dốc từ hành lang đổ về phía nhà ga, chúng làm công việc lấy các xác chết ra được nhanh chóng (các xác chết được mang ra khỏi các phòng hơi ngạt cũ theo cách cổ điển: khiêng cáng hoặc túm lấy mà kéo). Các phòng hơi ngạt mới rộng mỗi chiều 7 - 8m. Tổng diện tích sàn các phòng hơi ngạt mới bây giờ lên tới 460m vuông và tổng diện tích tất cả các phòng hơi ngạt tại Treblinka là 635m vuông.
Trong đoạn này, Grossman viết dựa trên tính toán của ông về số lượng người bị giết trên mỗi chuyến tàu và theo đó dẫn tới con số ước lượng 3 triệu người đã bị giết trong 10 tháng.
Ko hiểu chúng tôi có đủ can đảm để mô tả lại những gì các nạn nhân cảm thấy, những gì họ phải trải qua trong những giờ khắc cuối cùng trong phòng hơi ngạt? Chúng tôi biết rằng họ đã câm lặng ... Trong tình trạng bị nhồi nhét khủng khiếp đến gãy xương, đến ngạt thở, họ đứng người nọ ép vào người kia. Cuối cùng khi làn hơi chết chóc nhớp nhúa phun xuống họ vẫn đứng nguyên đó như 1 khối thống nhất.
Hình ảnh nào lóe lên trong những cặp mắt đờ đẫn trước cái chết đó? Thời thơ ấu của họ, những ngày tháng thanh bình hạnh phúc, hay chuyến đi tàn khốc mới rồi? Hay vẻ mặt tươi cười của những tên lính SS trên sân ga? "Thì ra đây là lý do chúng cười." Ý thức họ mất dần, phút đau đớn khủng khiếp cuối cùng đã tới ... Ko, điều đó ko thể tưởng tượng được ... Các xác chết vẫn đứng, lạnh dần đi. Các nhân chứng nói rằng trẻ em có thể thở được lâu hơn người lớn. Các phụ tá của Schmidt quan sát qua 1 lỗ nhỏ khoảng 20 - 25 phút sau đó, đó là lúc phải mở cửa phòng hơi ngạt thông ra sân ga dành cho xe chạy trên đường ray khổ hẹp. Các tù nhân trong bộ áo liền quần bắt đầu công việc "bốc dỡ". Do sàn phòng hơi ngạt dốc ra phía sân ga nên các xác chết tự đổ ra phía đó. Những người đã từng chứng kiến việc "bốc dỡ" phòng hơi ngạt cho tôi biết mặt các nạn nhân đều rất vàng, 1 chút máu rỉ ra từ mũi và miệng của khoảng 70% người trong số họ. Các nhà sinh lý học sẽ giải thích hiện tượng đó.
Các xác chết được bọn SS kiểm tra. Nếu ai đó bị phát hiện còn sống, rên rỉ hoặc cử động, họ sẽ bị bắn bằng súng ngắn. Sau đó 1 nhóm trang bị kẹp nha sĩ sẽ vặn những chiếc răng vàng và platin khỏi miệng các xác chết. Những chiếc răng này sau đó được phân loại theo giá trị, đóng vào hộp và gửi về Đức. Có vẻ như lý do là vặn răng người chết thì dễ dàng hơn là khi họ còn sống.
Các xác chết được chất lên xe tải đưa tới những hố chôn tập thể khổng lồ. Tại đó chúng bị đặt thành hàng sát nhau, hết lớp này đến lớp khác. Các hố chôn đó sẽ được để nguyên đấy ko lấp đất, chờ đến khi đầy mới lấp ... Và trong khi đó, khi các công nhân chỉ mới bắt đầu "bốc dỡ" phòng hơi ngạt, viên Scharfuhrer phụ trách "vận chuyển" đã nhận được 1 mệnh lệnh ngắn gọn bằng điện thoại. Viên Scharfuhrer lập tức thổi 1 hồi còi, đó là tín hiệu cho tay lái tàu, và 1 đoàn tàu 20 toa khác lại từ từ vào nhà ga được núp dưới tên gọi "Ga Ober - Maidan" ... Những chiếc máy xúc vẫn làm việc, gầm rú, đào suốt ngày đêm những hố chôn người mới dài hàng trăm mét. Những hố chôn có trước vẫn được để nguyên ko lấp để chờ đến khi đầy, chúng sẽ ko phải chờ đợi lâu.
Himmler đã đến thăm Treblinka đầu năm 1943 vào thời điểm cuối mùa đông. Hắn kiểm tra khu trại và 1 người đã nhìn thấy hắn tại đó kể rằng hắn đã tới bên 1 hố chôn tập thể và nhìn xuống rất lâu mà ko nói gì. Viên Tổng chỉ huy (Reichshuhrer) SS bay đi ngay trong ngày bằng máy bay riêng, trước khi đi, Himmler ra 1 mệnh lệnh cho các chỉ huy trại làm bối rối tất cả mọi người: Đại úy (Hauptsturmfuhrer) Baron von Perein cùng cấp phó là Korol và trung úy Franz phải ngay lập tức thiêu hủy toàn bộ các xác chết, mang tro than ra khỏi trại và rải trên các cánh đồng và đường xá. Lúc đó đã có hàng triệu xác chết và nhiệm vụ này có thế nói là quá khó khăn và phức tạp. Nhiệm vụ này cũng có nghĩa là ko được chôn người chết nữa mà phải đốt. Tại sao Himmler lại bay tới đây kiểm tra và ra 1 mệnh lệnh cá nhân rõ ràng như vậy? Chỉ có thể có 1 lời giải thích: chiến thắng của Hồng quân tại Stalingrad.
Mới đầu, việc đốt xác ko được thuận lợi lắm, những cái xác ko chịu cháy. Tuy nhiên người ta nhận ra rằng xác phụ nữ cháy tốt hơn xác đàn ông nên các công nhân - tù nhân thử dùng xác phụ nữ làm mồi để xác đàn ông dễ cháy hơn. 1 lượng lớn xăng dầu đã được dùng để đốt xác nhưng như thế quá lãng phí và cũng ko có tác dụng tốt lắm. Mọi thứ dường như đi vào ngõ cụt. Nhưng 1 giải pháp đã sớm được tìm ra, 1 gã đàn ông mập lùn khoảng 50 tuổi đã tới, đó là 1 chuyên gia.
Các lò thiêu bắt đầu được xây dựng dưới sự hướng dẫn của tay chuyên gia. Các lò thiêu này có kiểu dáng đặc biệt. Máy xúc đào 1 con hào dài 250 - 300m, rộng 20 - 25m và sâu 5m. Các rầm bằng bêtông cốt sắt được đặt dưới đáy thành 3 hàng cách đều nhau, bên trên chúng đặt các thanh thép thành 1 lớp sàn vắt ngang hố, sau đó chúng lại đặt tiếp các thanh ray lên trên các thanh thép, mỗi thanh ray cách nhau khoảng 5 - 7cm. Đó là 1 kết cấu khổng lồ tạo nên lò thiêu quái quỷ này. 1 tuyến đường ray khổ hẹp mới được xây dựng dẫn từ các hố chôn tập thể tới hố đốt xác. 1 hố đốt xác khác cũng được xây dựng ngay sau đó và tiếp theo là cái thứ 3 với cùng kích cỡ. Trong mỗi cái lò nướng này có thể đốt được 3.500 - 4.000 xác 1 lúc.
Những người đã từng làm việc tại khu đốt xác kể rằng các lò đốt này làm họ liên tưởng tới những ngọn núi lửa. Hơi nóng khủng khiếp làm cháy xém cả mặt các công nhân, ngọn lửa bốc cao tới 8 - 10m, những cột khói dầy đặc có mùi mỡ cháy bay lên trời tạo thành những đám mây nặng nề đứng im phía trên khu trại. Vào buổi đêm, dân địa phương tại các làng xung quanh có thể nhìn thấy ngọn lửa từ bất cứ đâu trong khoảng cách 40km. Chúng bốc cao hơn cả những ngọn thông bao bọc khu trại. Mùi thịt người cháy phủ kín khu vực xung quanh. Khi gió thổi về hướng trang trại của người Ba Lan cách đó 3km ai nấy đều cảm thấy như nghẹt thở trước cái mùi ghê rợn đó. Khoảng 800 tù nhân phải làm công việc đốt xác này. Công việc quái đản đó diễn ra suốt ngày đêm trong 8 tháng mà vẫn ko thể đốt hết hàng triệu xác chết vì các chuyến tàu vẫn liên tục đổ tới các nạn nhân mới.
Các chuyến tàu đến từ Bulgaria luôn làm bọn SS và Wachmanner vui sướng 1 cách quỷ quyệt, các nạn nhân ko hề có ý niệm gì về số phận đang chờ đợi họ, mang theo nhiều tài sản có giá trị, nhiều thứ ngon lành trong đó có bánh mì trắng. Tiếp sau đó là các chuyến tàu đến từ Grodno và Bialystok, sau nữa là từ các khu Do Thái Warsaw nổi loạn. 1 nhóm dân Digan đến từ Bessarabia, khoảng 200 đàn ông cùng 800 phụ nữ và trẻ em. Những người Digan đi bộ tới với 1 dãy xe ngựa kéo theo sau. Đó là những người vốn rất ranh mãnh. Họ tới dưới sự áp giải của chỉ 2 lính gác, cả 2 hoàn toàn ko biết rằng họ đang dẫn những người này tới chỗ chết. Các nhân chứng nói rằng những phụ nữ Digan đã vỗ tay khi nhìn thấy tòa nhà đẹp đẽ, nơi đặt các phòng hơi ngạt, và ko hề nghi ngờ gì về số phận đang chờ đợi họ. Bọn Đức đã được 1 cuộc vui đặc biệt trong vụ đó.
Phải chịu đựng những nỗi đau khủng khiếp nhất là các nạn nhân đến từ các khu Do Thái. Phụ nữ và trẻ em bị tách khỏi đám đông và đưa thẳng đến lò thiêu thay vì đưa vào phòng hơi ngạt trước. Các bà mẹ trở nên điên loạn khi bị dồn cùng những đứa con vào lò thiêu đang rực cháy, nơi hàng ngàn xác chết cũng đang chìm trong khói lửa. Những xác chết quằn quại, giẫy giụa trong lò lửa như thể chúng đang sống lại vậy, có cả những xác phụ nữ đang mang thai nổ tung bụng vì sức nóng và những hài nhi chưa kịp sinh ra bị thiêu cháy ngay trước ổ bụng vỡ toác của người mẹ. Những cảnh tượng đó có thể làm cả những người mạnh mẽ nhất trở nên hoàn toàn mất trí.
Quả là rất khó khăn khi đọc câu chuyện này. Xin độc giả hãy tin tôi, viết nó ra cũng khó khăn ko kém. Ai đó chắc sẽ hỏi: “Tại sao phải viết nó ra, nhớ đến nó làm gì?” Đó là trách nhiệm của người viết, phải nói ra sự thật khủng khiếp này, đó cũng là trách nhiệm công dân của người đọc, phải nhớ lấy nó. Tất cả những ai quay lưng bịt mắt với sự thật này là những kẻ lăng mạ vong linh những người đã chết. Tất cả những ai ko biết về sự thât này sẽ ko bao giờ hiểu được kẻ thù là hạng quỷ dữ nào mà Hồng quân của chúng ta phải chiến đấu để tiêu diệt đến cùng.
Bọn SS ở Treblinka bắt đầu cảm thấy nhàm chán. Quy trình đưa các nạn nhân vào phòng hơi ngạt đã từng làm chúng hưng phấn nay đã trở thành việc thường ngày. Khi việc đốt xác bắt đầu, bọn SS dành nhiều thời gian bên các lò thiêu, lấy việc xem cảnh tượng mới này làm trò giải trí. Tay chuyên gia đến từ Đức đi lại giữa các lò thiêu từ sáng đến tối, nói rất nhiều và luôn trong trạng thái kích động. Người ta kể rằng chưa từng có ai thấy hắn tỏ ra lo lắng hay thậm chí là nghiêm nghị, nụ cười ko bao giờ rời khỏi khuôn mặt hắn. Khi các xác chết rơi xuống các thanh thép, hắn thường nói: “Đồ ngốc, đồ ngốc.” Đó là câu ưa thích của hắn.
Thỉnh thoảng bọn SS tổ chức 1 thứ tương tự như picnic bên các lò thiêu; chúng ngồi bên những tường chắn gió uống rượu, ăn nhậu và ngắm ngọn lửa. Những người ốm yếu cũng bị xử lý tại đây. 1 con hào tròn được đào rồi đặt các giàn thiêu dưới đáy, các xác chết bị đốt tại đó. Những chiếc ghế dài thấp và nhỏ đặt quanh hào như thế đó là 1 sân vận động. Những chiếc ghế này nằm sát bờ hào khiến người ngồi trên đó gần như ngồi ngay trước lò thiêu. Những người ốm yếu già cả được đưa tới, sau đó tên “y sĩ” buộc họ ngồi trên những chiếc ghế đó đối diện với ngọn lửa bốc lên từ những thân người. Khi họ đã có vẻ ko thể chịu đựng được thêm, những kẻ ăn thịt đồng loại bắn vào những mái đầu hoa râm của họ và đẩy vào lưng họ. Cả người chết lẫn chưa chết hẳn đều rơi vào ngọn lửa.
Chúng tôi vốn ko bao giờ quá quan tâm đến những trò vui thô tục Đức nhưng chắc chắn là hầu như ko ai trên hành tinh này có thể tưởng tượng được những trò vui của bọn SS ở Treblinka. Chúng đã tổ chức các cuộc đấu bóng cho các nạn nhân, dàn đồng ca của các nạn nhân, các cuộc khiêu vũ cho các nạn nhân … Thậm chí có cả 1 bài thánh ca đặc biệt tên là “Treblinka” được chúng viết cho các nạn nhân, nó có lời lẽ như sau:
“Fur uns gibt heute nur Treblinka
Die unser Schiksal ist …” *
Những người đang bị thương cũng bị bắt phải học những bài tình ca Đức ngu ngốc chỉ ít phút trước khi họ bị giết:
“Ich bruch das Blumelein
und schenkte is dem schonste
geliebste Madelein …” **
Tên chỉ huy trại chọn vài đứa bé từ 1 trong các chuyến tàu, giết hết bố mẹ chúng, mặc cho chúng những bộ quần áo đẹp nhất, cho chúng rất nhiều kẹo, chơi với chúng, và sau đó ra lệnh giết chúng chỉ vài ngày sau khi hắn đã chán với trò chơi này. 1 trong các trò giải trí chính là các cuộc hãm hiếp và hành hạ những cô gái trẻ đẹp vào ban đêm, các cô gái này đã được chọn sẵn từ mỗi chuyến tàu chở nạn nhân. Đến sáng, chính những tên hiếp dân lại dẫn họ đến phòng hơi ngạt.
* “Chỗ dành cho chúng tôi giờ đây chỉ là Treblinka
Đó là số phận của chúng tôi …”
** Tôi hái 1 bông hoa nhỏ
và trao nó cho người đáng yêu nhất
người con gái được yêu thích nhất …”
Tất cả các nhân chứng đều nhớ 1 đặc trưng thường gặp ở bọn SS tại Treblinka: chúng đều yêu thích lý thuyết về xây dựng và triết học. Tất cả chúng đều tự cho phép mình thuyết giảng trước các tù nhân. Chúng khoác lác và giảng giải về ý nghĩa vĩ đại của Treblinka đối với tương lai. Tất cả chúng đều tin tưởng chân thành và sâu sắc về tầm quan trọng và tính đúng đắn trong công việc của chúng.
Chúng cũng tập luyện thể thao - chúng chăm chút nhiệt tình cho sức khỏe bản thân và sự tiện nghi trong cuộc sống của chúng từng ngày. Chúng làm vườn và trồng hoa xung quanh khu nhà ở dành cho lính. Chúng đi nghỉ phép ở Đức vài lần mỗi năm vì bọn chỉ huy nghĩ rằng công việc của chúng rất ko tốt cho sức khỏe và muốn bảo đảm cho bọn chúng. Khi về đến nhà, chúng đi loanh quanh đầu ngẩng cao, đầy tự hào.
Mùa hè năm 1943 là thời kỳ nóng bất thường tại khu vực này. Trời ko mưa, ko mây, ko có gió trong nhiều tuần. Công việc đốt xác được đẩy lên cao độ. Các lò thiêu rực sáng suốt ngày đêm trong 6 tháng nhưng mới chỉ đốt được độ hơn nửa số xác chết. Các tù nhân làm công việc đốt xác có lẽ đã ko thể đứng vững trước việc làm trái đạo lý khủng khiếp này nên đã có từ 15 - 20 người tự sát mỗi ngày. Nhiều người trong số họ chọn cái chết như 1 cách vi phạm quy định có tính toán.
"Ăn 1 viên đạn quả là 1 kết cục xa xỉ", Kosezky, 1 bác sỹ đã thoát khỏi khu trại nói. Mọi người bảo tôi rằng sống ở Treblinka còn khủng khiếp hơn là chết nhiều lần. Tro than của người chết được chất lên tàu hỏa mang ra khỏi hàng rào trại. Các nông dân làng Wulka bị bọn Đức cưỡng bách phục vụ cho chúng chuyển tro than sang xe ngựa kéo và đem rải dọc con đường dẫn từ khu trại chết chóc này tới khu trại giam giữ người Ba Lan. các tù nhân trẻ em dùng xẻng rải tro thậm chí ngay trên mặt đường. Thỉnh thoảng chúng còn tìm thấy 1 đồng xu hay 1 chiếc răng vàng. Những đứa trẻ này được gọi là "Lũ trẻ từ con đường đen". Con đường trở nên đen nhẻm vì tro than cứ như được trải nhựa. Bánh xe nghiến lên chúng phát ra tiếng lạo xạo đặc biệt, khi tôi lái xe trên đó tôi đã nghe thấy tiếng lạo xạo thê lương đó, chúng vang nhẹ như 1 tiếng than ...
Trong bài hát "Treblinka" mà bọn Đức bắt 800 tù nhân làm công việc đốt xác phải hát trong khi làm việc, có những lời van vỉ của các tù nhân rằng họ sẽ ngoan, hy vọng rằng họ sẽ được thêm "1chút xíu, 1 chút xíu niềm vui, dù rằng đó chỉ là được nhìn cuộc đời thêm 1 phút".
Có 1 ngày hạnh phúc ở địa ngục Treblinka ... Các tù nhân lập kế hoạch nổi dậy. Họ chẳng có gì để mất, tất cả họ đã bị tuyên án tử. Mỗi ngày họ tồn tại giờ đây là 1 ngày chịu sự hành hạ, tra tấn. Bọn Đức tất nhiên chẳng bao giờ cám ơn họ, những nhân chứng của 1 tội ác khủng khiếp. Tất cả họ rồi sẽ có kết cục trong phòng hơi ngạt và sẽ có người khác thay thế. Chỉ vài chục người sống sót ở Treblinka qua vài tuần hay vài tháng, còn lại thì chỉ vài ngày. Đó là những người có chuyên môn - thợ mộc, thợ đục đá, thợ may, thợ cắt tóc. Họ chính là những người lập ra ủy ban nổi dậy. Họ ko muốn trốn thoát cho đến khi họ phá hủy được Treblinka.
1 đợt nóng ngột ngạt đến vào cuối tháng 7. Khi mở các hố chôn tập thể, hơi bốc lên như thể đó là 1 nồi nước sôi khổng lồ. Mùi hôi thối khủng khiếp và sức nóng đủ để làm chết người - những tù nhân gày gò vác các xác chết đi thỉnh thoảng cũng rơi luôn vào lò thiêu mà chết. Hàng tỉ con nhặng béo múp vì có quá nhiều thứ để ăn bò lúc nhúc trên mặt đất và bay vù vù trên trời.
Quyết định khởi nghĩa sẽ bắt đầu vào ngày 2/8. Tín hiệu là 1 phát súng *. Những ngọn lửa mới đã bốc lên nhưng lần này ko phải là ngọn lửa nhớp nhúa từ những xác chết bị đốt mà là ngọn lửa rực rỡ, hừng hực, hung bạo phát ra từ nòng súng. Các tòa nhà trong trại bị đốt ... Tiếng súng nổ như sấm dậy, súng máy khạc đạn từ các tháp canh bị những người nổi dậy chiếm. Không khí trở nên náo loạn với những tiếng huyên náo và đổ vỡ, tiếng đạn rít át cả tiếng vù vù của lũ nhặng nhơ bẩn. Những tên phát xít nhuốm đầy máu hiện lên trong đám lửa. Vào ngày 2/8, máu của bọn quỷ dữ SS đã đổ xuống mảnh đất địa ngục Treblinka ... Tất cả chúng đều hoảng loạn, quên tiệt mất rằng hệ thống phòng thủ của Treblinka đã được chuẩn bị rất tốt, quên rằng những loạt đạn chết chóc đã được bố trí hướng vào các lối ra, quên cả lấy vũ khí của chính chúng.
Trong khi Treblinka bốc cháy, những người nổi dậy phá vỡ các hàng rào, mặc niệm nắm tro tàn của các nạn nhân, bọn SS và cảnh sát đổ tới từ khắp nơi để săn lùng họ. Hàng trăm con chó cảnh sát đã được đưa tới sau đó. Máy bay Đức cũng được huy động. Cuộc chiến tiếp tục trong rừng và đầm lầy. Chỉ có rất ít người nổi dậy sống sót, nhưng điều khác biệt mà họ làm được ở đây là gì? Họ đã chiến đấu, với vũ khí trong tay. **
* Người tổ chức chính của cuộc nổi dậy là Zelo Bloch, 1 trung úy người Do Thái trong quân đội Czech. Cuộc nổi dậy đã phải bắt đầu sớm vì 1 tên lính gác SS đã nghi ngờ. Hắn đã bị bắn nhưng việc này làm cuộc nổi dậy bắt đầu khi chưa kịp chuyển phần lớn số vũ khí ra khỏi kho vũ khí mà những người nổi dậy đã chiếm được bằng cách đánh 1 chìa khóa phụ.
** Có khoảng 750 tù nhân đã thoát khỏi những vòng rào thép gai nhưng chỉ có 70 người sống được tới ngày nhìn thấy tự do 1 năm sau đó.
Treblinka ngừng tồn tại sau ngày 2/8. Bọn Đức thôi ko đốt những xác chết còn lại, phá hủy luôn tòa nhà bằng đá, dỡ bỏ hàng rào thép gai, đốt các trại lính bằng gỗ còn chưa bị những người nổi dậy đốt. Các thiết bị lắp đặt nên cái nhà máy giết người này bị cho nổ hoặc tháo dỡ chất lên tàu hỏa đem đi. Các máy xúc cũng được cho nổ hoặc đem đi. Vô số hố chôn người tập thể được lấp đất lại, sân ga bị phá hủy cho đến viên gạch cuối cùng, đường ray và tà vẹt cũng bị tháo dỡ hết. Đậu được trồng trên nền cũ của khu trại và Streben, 1 dân khai hoang, dựng 1 ngôi nhà nhỏ ở đó. Giờ đây, ngay cả ngôi nhà đó cũng ko còn tồn tại, nó cũng bị đốt nốt *.
Bọn Đức có ý định gì khi xóa bỏ hoàn toàn mọi thứ ở đây? Để che đậy tội ác giết người? Nhưng sao lại chỉ những thứ nằm trên mặt đất? Himmler đã ko còn quyền lực đối với những kẻ tòng phạm: chúng cúi đầu, những ngón tay chúng run rẩy mân mê tà áo, nghẹn ngào từng tiếng kể lại câu chuyện về tội ác của chúng, những lời kể nghe thật điên loạn, mê sảng, ko thể tin được. 1 sỹ quan Soviet mang dải băng xanh được tặng thưởng vì chiến công tại Stalingrad viết lại tất cả lời khai của những tên giết người, hết trang này đến trang khác. 1 anh lính gác đứng bên cửa ra vào, môi mím chặt. Anh ta cũng có huân chương vì Stalingrad trên ngực và khuôn mặt anh ta cũng tối sầm lại lạnh lùng.
Chúng tôi đi vào trại và bước trên mảnh đất Treblinka. Những quả đậu nhỏ bé mở tung khi chỉ cần chạm rất nhẹ hoặc thậm chí tự mở khi có rung động nhẹ; hàng triệu hạt đậu rơi đầy mặt đất. Tiếng những hạt đậu rơi xuống đất, tiếng lách tách của những quả đậu vỡ ra pha trộn vào nhau thành 1 bản nhạc buồn bã nhẹ nhàng, nghe giống như tiếng những chiếc chuông nhỏ dùng trong đám tang ngân lên từ sâu dưới lòng đất, vừa đủ để nghe thấy, thê lương, mênh mang, êm đềm.
Mặt đất ném ra những khúc xương gãy, răng, quần áo, giấy tờ. Trái đất ko muốn giữ những bí mật đó. Các bằng chứng tự trồi lên khỏi mặt đất như những khối ung nhọt tự vỡ ra. Chúng nằm đây, trong tình trạng mục nát là những tấm váy của những nạn nhân đã bị giết, quần áo giầy dép của họ, những hộp xì gà đã phủ rêu xanh, những bánh xe đồng hồ, dao gọt bút chì, bàn cạo râu, giá nến, 1 chiếc giày trẻ con đính ngù lông đỏ, khăn tắm thêu kiểu Ukraina, đăng ten đồ lót, kéo, đê khâu, áo ngực phụ nữ, những dải băng. Cách đó 1 chút là hàng đống mảnh bát đĩa rải thành 1 con đường trên mặt đất. Xa hơn nữa - như thể có bàn tay ai đó đã đưa chúng ra ánh sáng từ những hố sâu dưới lòng đất - lòi ra những thứ mà bọn Đức đã cố chôn chặt: hộ chiếu Soviet, những cuốn vở có chữ viết bằng tiếng Bulgaria, ảnh chụp những đứa trẻ từ Warsaw và Vienna, những bức thư trẻ con nguệch ngoạc, 1 quyển thơ, 1 câu kinh thánh in trên mảnh giấy ngả vàng, hộp đựng thức ăn kiểu Đức ... Và khắp nơi là hàng trăm chai dầu thơm đủ mầu xanh, hồng, xanh lơ ... 1 mùi thối rữa khủng khiếp phủ lên mọi thứ, cái mùi ko gì có thể xua tan được dù là lửa, mặt trời, mưa, gió hay tuyết. Hàng trăm đám ruồi nhặng bò lổm ngổm trên những thứ đã thối rữa 1 nửa đó, kể cả giấy tờ và các bức ảnh.
Chúng tôi bước loạng choạng hết chỗ này qua chỗ khác trên địa ngục ko đáy Treblinka, và rồi đột nhiên dừng lại. 1 mớ tóc vàng gợn sóng, sáng màu và đẹp, rực rỡ như đồng thau bị dẫm đạp trên mặt đất, cạnh đó là 1 lọn tóc vàng nữa, tiếp đó lại có những bím tóc đen dày và nặng hiện lên trên mặt cát, và nữa ... và nữa ... Dường như chúng là những thứ đựng trong 1 - chỉ 1 túi đựng tóc - đã từng được đưa đi. Tất cả đều là thật. Rốt cuộc thì hy vọng rồ dại rằng tất cả mọi thứ chỉ là 1 giấc mơ đã tiêu tan. Những quả đậu vẫn vỡ lách tách, lách tách, những hạt đậu rơi xuống như tiếng chuông nguyện hồn ngân lên từ sâu trong lòng đất. Và ai nấy đều cảm thấy nếu như tim mình có thể ngừng đập ngay bây giờ mới có thể cảm nhận được từng lời than, từng nỗi thống khổ mà loài người có lẽ ko bao giờ có lại.
Ko có gì ngạc nhiên là Grossman đã rất khó đứng vững trước những gì bản thân ông tìm thấy. Ông đã sụp đổ vì căng thẳng thần kinh, stress và kinh tởm trong chuyến trở về Moscow vào tháng 8. Ehrenburg đã phải qua nhà báo Pháp Jean Cathala nhờ ông chuyển chi tiết những gì phát lộ khi giải phóng Majdanek và Treblinka. Grossman có lẽ đã quá phát ốm để có thể rời khỏi giường mà gặp mọi người.
* Gia đình Streben đã làm khu vực này trông giống như 1 trang trại của người Ukraina.
PHẦN NĂM
GIỮA ĐỐNG ĐỔ NÁT CỦA CHẾ ĐỘ QUỐC XÃ
1945
HAI MƯƠI NHĂM
WARSAW VÀ LODZ
Sau cuộc tổng tấn công mùa hè năm 1944 buộc Wehrmacht rút từ Beresina về Vistula, Hồng quân cần 1 chút thời gian để bổ sung nhân lực và trang bị. Cuối tháng 7, khi Phương diện quân Belorussia 1 của Rokossovsky đến được ngoại ô phía đông Warsaw, các trạm phát thanh Soviet đã loan báo về cuộc khởi nghĩa của người Ba Lan trong vùng Đức chiếm đóng. Nhưng Stalin ko có ý định tới giúp đỡ họ hay thậm chí là để cho Đồng minh tiếp viện cho họ bằng đường ko. Lý do là vì cuộc khởi nghĩa này do Armia Krajowa (Quân đội Quốc gia) tổ chức và chỉ huy - đây là lực lượng trung thành với chính phủ lưu vong tại London chứ ko phải Uỷ Ban Giải Phóng Quốc gia, tổ chức + sản bù nhìn được thành lập tại Lublin. Cuộc khởi nghĩa Warsaw anh hùng và bất hạnh đã chỉ diễn ra từ ngày 1/8 đến ngày 2/10 là bị dập tắt. Ko hề có 1 dòng ghi chép nào của Grossman đề cập đến sự kiện này, điều đó cho thấy nhà cầm quyền Soviet đã hoàn toàn ỉm đi tin tức về nó. Sau khi quân Đức nghiền nát cuộc nổi dậy, chúng đã phá huỷ 1 cách có hệ thống 1 phần thành phố như sau này Grossman mô tả.
Để chuẩn bị cho đợt tấn công tiếp theo sẽ bắt đầu vào tháng 10/1944, Stavka lập kế hoạch tiến hành đồng thời 3 cuộc tấn công với 4 triệu quân. Tháng 1/1945, 2 phương diện quân Soviet đánh vào Đông Phổ từ hướng nam và hướng đông, trong khi đó Nguyên soái Zhukov giờ đây nắm quyền chỉ huy Phương diện quân Belorussia 1 và Nguyên soái Konev chỉ huy Phương diện quân Ukraina 1 tấn công tây Ba Lan và Silesia từ các đầu cầu qua sông Vistula ở phía nam Warsaw. Khó khăn trong việc tiếp tế đạn dược và đồ hậu cần cho 1 chiến dịch quá lớn như vậy lại càng gặp nhiều trở ngại do chính sách đốt sạch, phá sạch của người Đức, trong đó có cả việc phá hoại hệ thống đường tàu hoả Soviet trên đường chúng rút lui. Grossman rời Moscow vào trung tuần tháng 1/1945 để đi theo Phương diện quân Belorussia 1, xe của ông dừng tại Kaluga, cách Moscow chừng 250km về phía tây nam.
1 cụ già Kaluga suy đoán hợp lý và thành thạo như mọi nhà quan sát nói khi đóng nắp thùng xăng đằng sau chiếc jeep của chúng tôi: "Ra thế, các anh đang tới Warsaw. Chiến tranh giờ đã chuyển tới đó, đã từng có 1 mùa đông tôi phải mở bồn để cho dầu chảy xuống rãnh, đó là lúc trước khi bọn Đức tới Kaluga. 10 năm nữa lũ nhóc sẽ học về điều đó ở trường rồi hỏi tôi: "Thật hả Dedka (ông nội), bọn Đức đã tới Kaluga àh?"
Chiến dịch Bagration mùa hè vừa qua đã cực kỳ thành công, nhưng chiến dịch mới này đã nhanh chóng cho thấy đây mới là cuộc tiến công nhanh nhất của Hồng quân. Zhukov và Konev bị Stalin thúc giục đã chỉ còn tập trung vào tốc độ tiến quân, chọc thủng các phòng tuyến và làm quân đội Đức hoàn toàn mất phương hướng. Họ lại được sự giúp đỡ to lớn nhờ tính cố chấp của Hitler, hắn đòi hỏi mọi mệnh lệnh phải được chính hắn kiểm tra trước khiến cho các chỉ huy tại chiến trường ko còn 1 chút tự do trong hành động, và đến khi họ nhận được quyết định từ Berlin thì tình hình tại chỗ đã thay đổi trên mọi phương diện.
Grossman, chưa bao giờ quên những thất bại khủng khiếp và nhục nhã năm 1941, đã rất được các chỉ huy tối cao Hồng quân ưa thích. Từ 1 người say mê các tay bắn tỉa Stalingrad, ông giờ đã chuyển sang 1 kiểu anh hùng mới - lính tăng, những người đã mạo hiểm xông vào tận hậu phương quân Đức, khiến quân thù ko bao giờ có cơ hội để tái tập hợp lực lượng.
Lính tăng. 1 số vốn là lính kỵ binh, nhưng lính tăng đồng thời cũng là pháo thủ và thợ cơ khí. Họ thừa hưởng tính táo bạo của kỵ binh và văn hoá của pháo binh. Trình độ cơ khí của họ thậm chí còn cao hơn cả cánh pháo binh. Nếu bạn muốn kiếm 1 chỉ huy tiền phương vừa là chuyên gia về tăng vừa là chuyên gia về pháo, bạn chỉ việc kiếm 1 lính tăng tuyến đầu, anh ta đã được trui rèn để trở thành 1 chỉ huy cho mọi loại binh chủng.
Vấn đề chính, đặc biệt là đối với các đơn vị mũi nhọn tiến quá xa các đơn vị hậu cần và kỹ thuật, là phụ tùng thay thế để kịp thời sửa chữa cho những chiếc xe tăng đang hành tiến. Những chiếc ô tô thường xuyên bị làm thịt để phục vụ cho mục đích này.
Cuộc tấn công của Phương diện quân Belorussia 1 bắt đầu ngày 14/1/1945 từ 2 đầu cầu Magnuszew và Pulawy. Tuyến phòng thủ của quân Đức bị các tập đoàn quân 5 Xung kích và 8 Cận vệ chọc thủng, Tập đoàn quân 8 Cận vệ chính là Tập đoàn quân 62 tại Stalingrad trước đây, chỉ huy vẫn là tướng Chuikov. Mục tiêu chính là vượt sông Pilica, 1 nhánh của sông Vistula, để làm bàn đạp cho các tập đoàn quân xe tăng cận vệ 1 và 2 chọc thủng tuyến phòng ngự và đột phá vào hậu tuyến quân Đức. Đại tá Gusakovsky, 2 lần Anh hùng Liên Xô, người mà Grossman biết rất rõ, đã ko đợi có cầu để chuyển trang thiết bị qua sông. Sau này ông kể với Grossman ông đã lệnh cho những chiếc xe tăng của mình phá vỡ mặt băng bằng đạn pháo rồi bò đáy qua sông như thế nào. Đó quả là 1 cơn ác mộng với cánh lái tăng.
"Vượt sông Pilica. Chúng tôi bắn vỡ mặt băng và bò đáy qua sông, nhờ đó tiết kiệm được 2 - 3h. Đám băng vỡ to những quả núi trôi trước mũi xe tăng và đập vào vỏ phát ra những tiếng động khủng khiếp. Khi những chiếc tăng còn đang bò dưới đáy sông gồ ghề, lính bộ binh Đức trang bị những khẩu Panzerfaust (*) là thứ đáng sợ nhất ... Chúng tôi tiến cực kỳ nhanh; có những ngày đi được 115 - 120km trong 24h. Xe tăng quân ta tiến về Berlin còn nhanh hơn cả tàu hoả.
Cánh phải của họ là Lữ đoàn tăng 47 Cận vệ, được tăng cường quân của 1 số binh chủng khác, đã tiến thẳng tới chiếm sân bay ở nam Sochaczew, 1 vị trí then chốt ở tây Warsaw. Các trung đoàn ko quân Soviet đã thiết lập căn cứ mới tại đây chỉ trong vòng có 24h.
Những điểm đặc sắc trong cuộc tiến công của quân ta. Các chiến sĩ xe tăng đã chiếm được những sân bay của bọn Đức, điều đó cho phép ko quân ta có điều kiện hỗ trợ các đơn vị cơ động. 1 bước phát triển mới nữa là phối hợp bộ binh với pháo tự hành. Cánh bộ binh ngày càng yêu mến những cỗ pháo tự hành, chúng khiến họ ko còn cảm thấy trần trụi."
Ngay khi Phương diện quân Belorussia 1 tấn công từ các đầu cầu, Tập đoàn quân 47 bố trí tại cánh phải đã tiến vòng qua Warsaw, trong khi đó Tập đoàn quân Ba Lan 1 dưới quyền chỉ huy của quân đội Soviet đã tiến vào ngoại ô thành phố. Chỉ huy quân Đức trong thành phố chỉ còn trong tay có 4 tiểu đoàn được trang bị rất ko phù hợp với việc phòng thủ nên đã quyết định di tản thủ đô Ba Lan. Hitler nộ khí xung thiên vì quyết định này và ra lệnh cho Gestapo thẩm vấn toàn bộ các sĩ quan có liên quan, kể cả tướng Guderian tham mưu trưởng OKH trực tiếp điều phối các hoạt động trên Mặt trận phía Đông.
Quân Soviet tiến vào thành phố đã gần như bị phá huỷ hoàn toàn và ko còn dân cư. Từ 1 thành phố có dân số 1.310.000 người trước chiến tranh, nay chỉ còn 162.000 dân còn ở lại. 1 sĩ quan đã tả lại thành phố chỉ hơn "1 đống đổ nát và tro tàn phủ tuyết" chút xíu. Grossman là 1 trong những phóng viên đầu tiên vào thành phố, ko có gì đáng ngạc nhiên, nơi đầu tiên ông muốn tới thăm là khu tập trung người Do Thái (ghetto) tại Warsaw.
Ngày 15/10/1941, bọn Nazi đã làm hàng rào vây kín khu ghetto và dùng nó làm trại tập trung dân Do Thái Ba Lan và các nước khác. Có những thời điểm có tới 380.000 người Do Thái đã bị giam giữ tại đây trước khi bị đưa đến chỗ chết. Phần lớn họ bị chuyển từ ga Umschlagplatz nằm ở góc đông bắc ghetto tới Treblinka. Vào ngày 19/4/1943, khi trong ghetto chỉ còn lại 40.000 người Do thái, 1 bộ phận nhỏ trong số họ đã nổi dậy chỉ với 1 ít vũ khí mà những người Ba Lan bên ngoài tuồn vào theo đường cống ngầm. Cuộc nổi dậy đã bị nghiền nát ko thương tiếc. Tuy vậy điều đáng ngạc nhiên là những người nổi dậy đã chiến đấu chống các đơn vị SS trong suốt gần 2 tháng.
Đối với Grossman, tới Warsaw rõ ràng là 1 khoảnh khắc xúc động, điều này được ông ghi lại trước hết trong sổ, sau đó là trong 1 bài viết trên tờ Krasnaya Zvezda.
Warsaw! Lời đầu tiên tôi nghe được tại Warsaw là khi đang trèo qua 1 cây cầu gẫy, 1 người lính lộn trái túi ra và nói với tôi: "Xem đây, tôi chỉ còn mỗi mẩu bánh mì khô này."
Ortenberg mô tả chuyến đi tới Warsaw của Grossman hơi khác. Sông Vistula ko hoàn toàn đóng băng, chỉ có những tảng băng trôi trên mặt nước. Grossman bỏ xe lại ở Praga, ngoại ô Warsaw nằm trên bờ đông sông Vistula và tìm cách vượt qua khúc sông nằm giữa 2 mố còn lại của cây cầu Poniatowsky. Ạnh ta tới được khối bê tông ở đỉnh trụ cầu, 2 người lính trung niên hạ 1 cái thang cứu hoả để Grossman trèo sang từ trên trụ cầu cao 8m, vẫn còn thiếu 2m nữa mới tới mặt băng, 2 người lính buộc dây vào đầu thang để hạ nó xuống thêm. Grossman trèo qua bằng thứ dụng cụ tự tạo nguy hiểm lúc lắc trong gió liên tục đó, cám ơn 2 người lính đã giúp mình rồi đi bộ vào thành phố.
"Đây là lần đầu tiên trong đời," cậu ta nói, "tôi phải dùng 1 cái thang cứu hoả để vào 1 thành phố." Grossman và nhiều phóng viên khác, những người vốn là dân thường trước chiến tranh, đã thay đổi như lời nhận xét của Ilya Ehrenburg. "Cái cách mà con người ta thay đổi khi đến với mặt trận mới kỳ diệu làm sao! Thời bình ko ai có thể nhầm lẫn giữa Grossman và 1 người lính, nhưng tại mặt trận anh ta tạo ấn tượng giống như 1 vị trung đoàn trưởng nào đó."
(*) Panzerfaust là súng phóng hoả tiễn vác vai được nền công nghiệp phát xít Đức sản xuất với số lượng lớn vào giai đoạn cuối chiến tranh, đây là 1 vũ khí chống tăng rẻ tiền.
Trèo dọc theo những tấm dầm thép cong vẹo của cây cầu đã bị đánh mìn, chúng tôi tới được trụ cầu xây bằng đá cao nằm trên bờ trái Vistula. Người lính gác già đứng bên đống lửa nhỏ. Ông nói với người lính tiểu liên đứng gần đó bằng giọng rất thật thà: "Xem này, người anh em, thật tốt là tôi vừa tìm thấy 1 mẩu bánh mì khô trong túi." Đó là những lời đầu tiên tôi nghe được tại Warsaw. Sau đó tôi được biết người lính già khoác áo choàng xám tả tơi này là 1 trong những người đã bảo vệ Moscow trong cái năm khủng khiếp đó (1941) và đã vượt qua 12.000km để tham gia vào nhiệm vụ vĩ đại này: chiến đấu để giải phóng.
Khi chúng tôi đến nơi, thành phố mới giải phóng Warsaw trông thật hùng vĩ và buồn, thậm chí có vẻ thảm thương. Phố xá đầy những đống gạch vụn. Những quảng trường rộng và các đại lộ dẫn thẳng tới trung tâm thành phố nằm giữa 1 mạng lưới các con phố nhỏ rắc rối, khúc khuỷu. Nó nhắc tôi nhớ tới những con đường mòn mà những người thợ săn vạch ra trong những cánh rừng rậm rạp hay trên những rặng núi. Những cư dân địa phương giờ đang dần trở về Warsaw phải trèo qua những đống gạch vụn; chỉ có rất ít phố mà ô tô hay xe ngựa kéo có thể đến được.
1 đám người cả già lẫn trẻ đầu đội mũ, mình khoác áo choàng hoặc áo mưa rách tả tơi đang đi bộ hay kéo những cái xe nhỏ chất đầy hòm xiểng. Các cô gái trẻ vừa đi vừa hà hơi vào những ngón tay lạnh giá, nhìn những đống đổ nát bằng con mắt buồn thảm. Họ là 1 đám đông tới hàng trăm, hàng nghìn người.
Vladislava và Sofia Kobus là 2 cô gái người Ba Lan đã từng sống trong hầm với những người Do Thái - những người Do Thái này đã trốn xuống đất, sống hàng năm trời dưới hệ thống cống ngầm Warsaw và trong những căn hầm. Họ là Yakov Manzhitsky, công nhân nhà máy bít tất Lodz và người em trai Aron, Isai Davidovic Ragozhek, kế toán viên, Abram Klinker, 1 người bầm dập tả tơi làm công việc thiêu xác tại sở chỉ huy Gestapo Warsaw, anh ta vốn là thợ giày. Tôi đến gần những con người đó giữa phố xá vắng lặng, mặt họ trắng bệch như tờ giấy, hình dáng họ gây shock cho bất cứ ai nhìn thấy. Người thợ làm bít tất nhỏ thó đã mang từ khu ghetto về cái hố nơi anh ta trốn cả 1 xô đầy tro xương người Do Thái, anh ta đã lấy số tro này từ sân nhà thờ Do Thái trong ghetto. Anh ta sẽ đi bộ tới Lodz ngày mai, mang theo xô tro.
Ghetto Warsaw. 1 bức tường cao gấp rưỡi thân người xây bằng 2 hàng gạch đỏ, đỉnh tường bằng xi măng gắn mảnh chai. Những viên gạch được đặt rất ngay hàng thẳng lối, bàn tay nào đã làm ra nó?
Trong ghetto: đó là cả 1 biển những đá và gạch vụn, ko còn 1 bức tường nào nguyên vẹn - hãn hữu lắm mới tìm thấy 1 viên gạch còn nguyên. Sự tức giận của lũ quái vật thật là khủng khiếp.
Cuộc gặp gỡ với những người trốn dưới hầm nhà 95z phố Zhelyaznaya. Họ đã bị biến thành chuột cống hay khỉ. Câu chuyện về 2 người Do Thái đến từ Lodz đã chạm trán nhau trong bóng tối của căn bếp 1 căn nhà đổ, nơi chuột và người Do Thái tìm tới uống nước mỗi đêm. Klinker kêu lên khi nghe thấy tiếng động: "Tôi là người Do Thái, nếu anh là 1 người nổi dậy thì xin hãy cho tôi theo." Tiếng trả lời vọng ra từ bóng tối: "Tôi cũng là người Do Thái." Họ nhận ra cả 2 đều đến từ Lodz, họ lần tìm nhau trong bóng tối và ôm chầm lấy nhau.
Nơi họ lẩn trốn nằm ngay giữa Sở sen đầm và Gestapo, trên tầng 4 một ngôi nhà đã bị phá huỷ 1 nửa. 1 cô gái tóc quăn người Ba Lan che chở cho họ. Bố cô gái khi biết đã chỉ đòi họ trả 1 zloty để mua rượu, "nếu ko tôi sẽ tố cáo các anh." Anh chàng Abram Klinker đã định tặng tôi thứ tài sản duy nhất còn lại - 1 cây bút máy.
Grossman kể lại trong 1 bài báo trên tờ Krasnaya Zvezda câu chuyện về cái "boongke" giấu mình trong tầng 4 của 1 ngôi nhà đổ.
Chúng tôi tới thăm "boongke" - nơi lẩn trốn bí mật của 6 người Ba Lan và 4 người Do Thái trong nhiều tháng. Trí tưởng tượng phong phú nhất của con người cũng ko thể nghĩ ra 1 cái hốc đá nằm trên tầng 4 của 1 ngôi nhà đổ lại chính là nó. Để tới được đây, người ta phải trèo lên những bức tường dốc đứng của 1 cầu thang sụp, leo qua 1 vực thẳm nhờ 1 cái xà nhà vốn là 1 phần của sàn nhà, và trườn qua 1 con rãnh hẹp tối đen nằm trong 1 nhà kho. Chúng tôi được 1 cô gái Ba Lan dẫn đường, cô đã từng sống ở đây. Cô ta bình thản đi trên chiếc xà nhà, và tôi phải thú thực rằng mặc dù tôi đã trải qua 3 năm rưỡi trên mặt trận, tim tôi thỉnh thoảng vẫn đông cứng lại trong chuyến du hành này, mồ hôi vã ra và mọi thứ trở nên đen tối trong mắt tôi. Vậy mà những người sống trong "boongke" đã từng chỉ dám di chuyển trong bóng tối, trong những đêm ko trăng.
Ghetto. Ai mà tưởng tượng nổi những toà nhà ở đây đã từng cao đến thế nào nếu chỉ nhìn vào những đống gạch vụn khổng lồ này. Giữa biển gạch vụn là 2 nhà thờ công giáo Ba Lan (*). 1 cái đầu phụ nữ được tạc bằng đá nằm lẫn trong đống gạch vụn đỏ. Những khu phố thảm hại như 1 khu rừng hoang dại làm bằng các tàn tích xây dựng. Toà giáo đường Do Thái trông tối tăm và xám xịt. Trong sân trong là những tay vịn lan can bằng gỗ đỏ cháy thành than, chúng từng được dùng để đốt xác những người nổi dậy tại khu ghetto Warsaw này. 1 đống tro ở góc sân - tro của những người Do Thái (**). Những cái bình, những mảnh quần áo, 1 chiếc giầy phụ nữ, 1 cuốn sách kinh Do Thái rách nát nằm lăn lóc.
Cuộc kháng cự tại khu định cư Do Thái bắt đầu ngày 19/4 và kết thúc vào ngày 24/5, người đứng đầu cuộc nổi dậy là Chernyakov đã tự sát ngày 23/7/1942. Các thành viên Hội đồng người Do Thái trong ghetto - Gustav Tselikovsky, , Sherishevsky, Alfred Stegman, Maximilian Lichtenbaum - đều bị bắn vào đầu tháng 5.
Trong cuộc nổi dậy tại ghetto Warsaw, Shmul Zigelbaum (thường gọi là Đồng chí Arthur) sống tại London cũng đã tự sát để tạo sự chú ý của dư luận thế giới đối với tấn thảm kịch của người Do Thái (***).
Từ Warsaw, Grossman tiếp tục đi theo làn sóng thắng lợi của Hồng quân tới thành phố Lodz, nơi bọn phát xít từng sử dụng khu ghetto tại đây làm trại tập trung. Lodz được Tập đoàn quân 8 Cận vệ của Chuikov giải phóng ngày 18/1, chỉ 4 ngày sau khi cuộc tấn công bắt đầu. Bước tiến thần tốc của quân đội Soviet đã ko cho phép nhà cầm quyền Đức có đủ thời gian phá huỷ thành phố.
Có tới 500 nhà máy to nhỏ tại Lodz. Các giám đốc và ông chủ đã chạy mất nên lúc này chúng do các công nhân quản lý. Nhà máy điện, xe điện, tàu hoả đều đang làm việc hết công suất. 1 cụ già lái tàu hoả chạy điện nói: "Tôi đã lái tàu 50 năm, tôi sẽ là người đầu tiên lái tàu đến Berlin."
Sở chỉ huy Gestapo: toà nhà vẫn nguyên vẹn, mọi thứ đâu vẫn ở đấy. Ảnh các lãnh tụ Đảng Công nhân Xã hội Quốc gia Đức bị vứt xuống đất, những đữa trẻ dận ủng nỉ đang nhảy nhót trên mặt Goering và Hitler.
(*) Có lẽ Grossman đang nhắc tới Nhà thờ Máu Trinh Nữ ở 24 phố Lechno, trung tâm Công giáo nằm trên con dốc giữa khu dành cho người Do Thái.
(**) Ko phải tất cả đều là tro người Do Thái. Bọn Nazi cũng sử dụng khu ghetto đổ nát này làm nơi hành quyết những người Công giáo Ba Lan.
(***) Ông là thành viên Uỷ ban Quốc gia thuộc Chính phủ Ba Lan lưu vong đóng tại Exile.
Các nhà máy sản xuất đạn dược: có tất cả 3 cái, 2 đã bị ko quân Anh phá huỷ, cái thứ 3 tại Lodz đang được chúng tôi nghiên cứu hôm nay - 1 tổ hợp khổng lồ để sản xuất ngư lôi. Nó được xây dựng từ năm 1944 nhưng chưa bao giờ sản xuất được hết công suất. Có những con hào nhỏ trong sân đào song song các phân xưởng. Những chiếc bàn trong căng tin, vài chiếc trên ghi dòng chữ: "Dành riêng cho người Đức." 1 công nhân Ba Lan nói: "Trong khi tôi làm được 8 quả (ngư lôi), 1 người Đức có thể làm 45 quả." Ngày làm việc kéo dài 12 tiếng. Có 2 bếp ăn trong căng tin - 1 cho người Đức và 1 cho người Ba Lan, có 2 loại vé ăn - Đức và Ba Lan. 1 bích chương to tướng bằng tiếng Đức treo trong mỗi phân xưởng ghi: "Bạn chẳng là gì cả, đất nước mới là tất cả."
Trừng phạt: khi 1 công nhân đi làm muộn, đánh rơi dụng cụ hoặc tỏ ra lười biếng, đốc công sẽ cho họ ăn bạt tai và tống vào xà lim phạt nằm dưới hầm các phân xưởng.
Lodz đã bị đổi tên thành Litzmannstadt để tưởng nhớ 1 viên tướng Đức (*). Chúng tôi, 4 người Do Thái, giới thiệu về nước Nga cho gia đình 1 viên tướng Nga đã quá cố tên là Shepetovsky. Con gái viên tướng tên là Irena ko biết 1 chút tiếng Nga nào, bà chỉ nói được tiếng Đức và tiếng Ba Lan. Gekhtman hát những bài dân ca vùng Volga cho bà nghe bằng giọng run run rất diễn cảm.
Tại ghetto Lodz. Bài hát của ghetto là: "Đừng nên buồn khóc, ngày mai mọi thứ sẽ tốt đẹp hơn, mặt trời cũng sẽ mọc."
Khu ghetto được thiết lập ngày 1/5/1940. Mỗi tuần tại đây có 3 ngày đẫm máu - thứ tư, thứ năm và thứ 6. Trong 3 ngày này bọn Đức Volkdeutsche (**) giết hại người Do Thái ngay trong nhà họ.
Mới đầu trong khu ghetto có 165.000 người Do Thái Lodz, 18.000 người Do Thái đến từ Luxembourg, Áo, Đức và Tiệp Khắc, 15.000 người Do Thái Ba Lan đến từ các khu định cư Do Thái khác - thí dụ như Kamish và 1 vài nơi nữa - và 15.000 người đến từ Chenstohova. Số lượng người Do Thái trong ghetto vào thời điểm đông nhất là 250.000 người. Nạn đói xảy ra, có khoảng 150 người chết mỗi ngày, bọn Đức lấy làm ko vui vì tỷ lệ chết quá thấp này. (***)
Trong đợt Aktion đầu tiên vào tháng 12/1942, 25.000 thanh niên nam nữ khoẻ mạnh đã bị đem đi, giả như đi làm việc nhưng thực ra họ bị giết sạch. Đợt Kinder - Aktion đầu tiên thì đã diễn ra từ tháng 9 cùng năm, tất cả trẻ em từ mới lọt lòng cho đến 14 tuổi cùng với người già, người bệnh tật đều bị giết (tổng số là 17.000 người). Những chiếc xe tải chở đám trẻ đi và 2h sau đã thấy quay lại để nhận chuyến hàng mới. Bọn giết người đã làm việc 1 cách có hệ thống, lấy mỗi lần 800 - 1.000 người để "đi làm" và giết họ. Đến ngày 1/1/1944 chỉ còn 74.000 người còn lại trong ghetto, 1 tay lái buôn trà tên là Hans Biebow là chỉ huy ghetto.
(*) Trung tướng Karl Litzmann chết năm 1915 khi đang cố đánh chiếm Lodz trong WW1. Ông ta được tặng thưởng "Pour le Mérite".
(**) Volksdeutsche là những người Đức sinh sống ngoài lãnh thổ Đế chế. Họ có thể là người thuộc chủng tộc Đức vốn sinh sống tại địa phương hay người Đức được chính quyền Nazi đưa tới để thiết lập nên quận Gau hay Warthegau nằm ở tây bắc Ba Lan, sau đó sáp nhập vào Đế chế Đức, người Ba Lan tại đây bị thanh lọc sắc tộc. Các chỉ huy Đức như tướng Guderian được chính phủ bù nhìn tại đây trao những điền trang lớn để tỏ lòng biết ơn.
(***) Trong tổng dân số gần 5.000.000 người của Warthegau vào năm 1939 có 380.000 người Do Thái và 325.000 người gốc Đức bản địa.
Trước khi xoá sổ khu ghetto (*), Oberburgermeister (thị trưởng)Bratvich và Hans Biebow loan báo rằng để bảo vệ những người Do Thái tại Lodz đã làm việc cho đất nước suốt 4 năm qua, Lãnh tụ đã quyết định sơ tán họ về tuyến sau. Ko 1 người Do Thái nào tập trung tại ga xe lửa. Biebow phải kêu gọi tập hợp 1 lần nữa và cho bắt nhiều người Do Thái đến nhưng rồi lại cho họ về, nói rằng hắn tin vào lòng thành của họ. Sau đó họ lại bị bắt đem đi bằng vũ lực, 2.000 - 3.000 người/ngày. Những giấy tờ tìm thấy trong các toa hàng trống cho biết họ bị đưa tới Maslovitsy (**) và Oswencim (Auschwitz).
Sau khi ghetto Lodz bị xoá sổ hoàn toàn, vẫn còn 850 người sót lại. Mũi thọc sâu của xe tăng ta đã cứu được họ.
Tổ chức tại ghetto Lodz. Nó có tiền riêng, bưu điện và tem thư riêng, trường học, nhà hát, xưởng in và 40 nhà máy may mặc, nhiều nhà máy nhỏ khác, vài viện điều dưỡng, 1 thư viện ảnh, 1 viện sử học, vài bệnh viện và trung tâm cấp cứu, nông trại, đồng ruộng, vườn rau, 100 con ngựa. Nó còn có cả huân huy chương riêng để thưởng cho những người lao động. Chaim Rumkowsky, giám đốc ghetto, 1 người Do Thái có học thức, là người nắm được các số liệu (***).
(*) Himmler ra lệnh xoá sổ khu ghetto ngày 10/6/1944, vài ngày sau D - Day.
(**) Maslovitsy cũng là nơi thiếu tá Sharapovich phát hiện ra kho sách quý mà bọn Đức đã lấy từ Thư viện Turgenev ở Paris. Số sách này được chở về Thư viện Lenin ở Moscow.
(***) Mordechai Chaim Rumkowsky là 1 nhân vật gây tranh cãi sau này. Vốn là 1 doanh nhân phá sản, ông ta được người Đức coi là Judenalteste, hay Bố Già Do Thái, vì có được quyền lực tuyệt đối tại ghetto thông qua quyền điều phối nguồn cung cấp lương thực. 1 cách độc đoán, ông ta ko chỉ điều hành ghetto như thể nó là thái ấp của riêng mình mà còn quyết định ai phải chết và ai sẽ được sống bằng cách lựa chọn những người sẽ bị chuyển tới Chelmno và sau này là Auschwitz. Lời kể của Grossman có lẽ còn quá lạc quan, có năm thậm chí có tới 20% dân số ghetto chết vì bệnh tật và đói khát.
Rumkowsky tự tuyên bố mình là Giáo trưởng Do Thái, đầu đội chiếc khăn cầu nguyện rất xịn, lão chỉ đạo mọi hoạt động từ trong giáo đường, ra các giấy chứng nhận kết hôn và li hôn, trừng phạt những người bồ bịch lăng nhăng. Lão cưới 1 nữ luật sư trẻ (*) khi đã 70 tuổi và có nhiều bồ bịch là các nữ sinh (**). Những bài thánh ca được soạn để ca tụng lão. Lão tự tuyên bố mình là người lãnh đạo và vị cứu tinh của người Do Thái. Lão là trợ thủ đắc lực của Gestapo.
Trong những lúc giận dữ, Rumkowsky thường đánh người bằng gậy hoặc cho họ ăn bạt tai. Trước chiến tranh lão ta là 1 nhà buôn thất bại và phá sản. Câu chuyện về cái chết của lão: khi người em trai cũng bị tống lên tàu hoả, Rumkowsky vẫn còn ảo tưởng về quyền lực của mình đã tuyên bố với đám Gestapo là nếu ko thả tự do cho ông em thì chính lão sẽ lên tàu theo. Thế là lão bị tống luôn lên tàu đưa tới Auschwitz, cô vợ trẻ cũng bị đưa đi chết cùng. Rumkowsky đã từng rất tự hào vì chuyện 1 bức thư được gửi từ Berlin cho Chaim Rumkowsky nhưng ko đề địa chỉ, vậy mà bức thư đó vẫn đến được tay lão ở Lodz.
Lodz là Manchester của Ba Lan. 15.000 thợ may đã từng may quần áo cho quân đội Đức tại đây. Họ được cấp 400gr bánh mì mỗi ngày và 900gr đường mỗi tháng. Trong khi đó, những người sống tại khu ghetto Warsaw chỉ được cấp 80gr bánh mì mỗi ngày.
Genicksschuss - 1 viên đạn vào gáy. (***)
Niềm tin tôn giáo của những người Do Thái trong ghetto sụt giảm thảm hại; thực tế những công nhân Do Thái vốn ko sùng đạo lắm. Biebow thường gửi nhiều vitamin cho dân ghetto. Trợ lý của Rumkowsky, 1 người Do Thái tên là Gertler có quan hệ với Gestapo nhưng đã làm được nhiều việc tốt, ông là người rất tốt và mọi người đều rất yêu mến ông.
Khi Gertler trở nên có quyền thế và người Đức tỏ ra rất tôn trọng ông, Rumkowsky trở nên thù ghét ông.
Bệnh viện của ghetto khiến các bác sĩ khắp Châu Âu phát sợ, 1 giáo sư nói: "Tôi chưa từng thấy 1 cơ sở y tế nào kiểu này ở Berlin."
Cái chết anh dũng của bác sĩ Weisskopf tại khu ghetto Lodz - ông định cắn cổ tên phát xít Bibach.
Cuộc nổi dậy tại ghetto Lodz do Kloppfisch lãnh đạo, ông vốn là 1 kỹ sư người Lodz.
Lodz và Poznan là 2 thành phố quan trọng nhất của Warthegau, phần đất phía tây Ba Lan bị bọn Nazi thôn tính và đặt tên theo con sông Warthe. Hitler chỉ định Arthur Greiser là người đứng đầu phần đất này. Hơn 70.000 người Ba Lan đã bị giết trong quá trình thanh lọc sắc tộc để lấy chỗ cho người Đức tới định cư tại đây. Hàng trăm ngàn người khác bị tống vào các trại lao động và trại tập trung. Sau người Do Thái, người Ba Lan là dân tộc bị thiệt hại với tỷ lệ lớn nhất trong WW2, thậm chí còn cao hơn cả Liên Xô.
Bọn Đức buộc tất cả nông dân Ba Lan rời bỏ nhà cửa, ruộng đất, mùa màng, nông cụ, bắt họ sống trong những khu nhà tạm và buộc họ làm việc như nông nô. Những người Đức phần lớn vốn sinh trưởng tại địa phương nhưng cũng có 1 số đến từ Ukraina (160.000 người). Trẻ em con nhà nông dân Ba Lan ko được đến trường và phải làm việc từ lúc 12 tuổi. Nhà thờ bị đóng cửa, chỉ để lại 1/20 số nhà thờ, số còn lại bị biến thành kho. Những người nông nô được trả 20 mark mỗi tuần và được cho ăn, trẻ em là 6 mark/tháng. Nông dân người Đức được đặc quyền giữ lại đủ sản phẩm để nuôi sống gia đình mình.
1 nông dân Ba Lan đã bị tống đến Dachau chỉ vì nói với người hàng xóm Đức của mình (trước khi người Đức thôn tính vùng đất này vào tháng 9/1939) rằng: "Sao anh cứ nói tiếng Đức thế, anh có ở Berlin đâu?" Trước chiến tranh, bọn phát xít thường tụ tập trong các buổi mít tinh của Đảng quốc xã dưới lớp vỏ là các buổi cầu nguyện.
Người định cư Đức đến thành 2 làn sóng - 1 vào năm 1941 và lần còn lại vào năm 1944. Người Đức bán lậu bánh mì cho người Ba Lan với giá 5 mark/kg, bột mì là 25 mark/kg, mỡ lợn 200 mark/kg. Hàng ngàn giáo viên, bác sĩ, luật sư, cha cố Ba Lan đã bị đưa đến Dachau và bị giết.
"Bọn Đức gọi vùng đất của chúng tôi là Warthegau, chúng cấm nông nô đi bất cứ đâu. Chúng tôi là những kẻ nô lệ."
Người Ba Lan bị cấm tới cửa hàng, công viên và vườn tược, bị cấm đi tàu điện vào chủ nhật còn ô tô thì cấm tiệt.
(*) Tên cô ta là Regine Weinberger.
(**) "Bồ" của Rumkowsky là những cô gái trẻ bị buộc phải trở thành tì thiếp của ông ta.
(***) Nghĩa đen trong tiếng Đức là bắn vào cổ nhưng thực tế là chỉ việc bắn vào gáy hướng lên sọ.
Bauerfuhrer (*) Schwandt có 3 nông nô và 3 phụ nữ, hắn béo khủng khiếp và ko trả cho nông nô gì hết. Trước chiến tranh hắn có 1 quán bar, 1 kho hàng tạp hoá và 4 morgen đất (mẫu, mỗi mẫu tương đương khoảng 0,4ha - Maseo). Giờ hắn sở hữu 50 morgen đất.
1 trong các nhiệm vụ của nông dân người Đức là đảm bảo cho việc trưng thu nông sản luôn được đầy đủ. Người Ba Lan ko được cấp vodka còn người Đức thì được vào những ngày nghỉ lễ. Người Ba Lan sẽ lĩnh án 3 tháng tù nếu sử dụng bật lửa xăng.
1 số người Đức ko tin rằng người Nga sẽ tới và cười nhạo những người đóng những cỗ xe ngựa lớn để chất tài sản lên đi chạy loạn. Họ ko tin điều đó cho đến tận ngày cuối cùng.
Bộ binh Hồng quân di chuyển bằng xe ngựa, xe bò và cả xe mui trần bóng lộn. Các chú lính rít makhorka, ăn uống và đánh bài. Các toa tàu hàng được trang hoàng bằng các tấm thảm, lái tàu ngồi trên những chiếc giường lông chim êm ái. Binh sĩ ko thèm ăn khẩu phần quân đội nữa, họ có đủ thịt lợn, gà. Đã xuất hiện những khuôn mặt tròn xoay hồng hào trong đám lính, điều chưa từng xảy ra trước đây. (**)
Dân thường Đức bị xe tăng ta bắt giờ đã được thả và đang quay lại. Họ hay bị ăn đòn dọc đường, người ta tháo yên cương ngựa của họ, người Ba Lan đang cướp bóc họ. "Các người đang đi đâu thế?" Tôi hỏi. Họ trả lời bằng tiếng Nga: "Tới Nga." Tại đây có 5 loại người Đức: dân tới từ Biển Đen, từ Balkan, từ các nước Baltic, Volksdeutsche và Reichsdeutsche (***).
Grossman sớm nhận ra rằng tư cách của lính Hồng quân thay đổi khi sang nước khác. Ông vẫn cố lý tưởng hoá những người lính tiền tuyến, đẩy mọi trách nhiệm về những việc làm sai trái cho các đơn vị tuyến sau như hậu cần hay vận tải. Trong thực tế, chính lính tăng mà ông rất sùng bái mới là những tay cướp bóc và hấp diêm tồi tệ nhất.
Những người lính tuyến đầu hành quân suốt ngày đêm dưới làn đạn, họ thật thánh thiện và trong sạch. Cánh lính hậu tuyến đem theo nạn hãm hiếp, rượu chè, cướp bóc.
250 cô gái Nga đang làm việc trong nhà máy Focke - Wulf, bọn Đức đã bắt họ tới đây từ Voroshilovgrad, Kharkov và Kiev. Theo chỉ huy Ctrị tập đoàn quân, những cô gái này ko có quần áo, đầy rận và phù thũng vì đói. Tuy nhiên theo nhà báo phụ trách tờ báo của tập đoàn quân, những cô gái này vẫn còn sạch sẽ và ăn mặc đầy đủ cho đến khi quân ta tới, đám lính đã trói họ lại, bịt mắt và lấy đồng hồ đeo tay của họ. Các cô gái Soviet mới được giải thoát thường phàn nàn rằng họ đã bị lính ta hãm hiếp. 1 cô vừa nói với tôi vừa khóc: "Ông ta là 1 lão già, còn nhiều tuổi hơn cả bố tôi."
(*) Bauerfuhrer là thủ lĩnh Đảng Quốc xã tại mỗi địa phương đồng thời là người tổ chức nông dân.
(**) Lính Hồng quân cũng cướp bóc của nông dân Ba Lan gần bằng người định cư Đức.
(***) Ở trường hợp này Volksdeutsche có nghĩa là người dân tộc Đức thiểu số tại Ba Lan. Reichsdeutsche tất nhiên là người Đức sống tại lãnh thổ Đức trước 1939.
HAI SÁU
VÀO HANG Ổ CỦA CON QUÁI VẬT PHÁT XÍT
Trong chuyến hành trình, Grossman tiếp tục đi cùng với sở chỉ huy Tập đoàn quân Cận vệ 8 của tướng Chuikov. Chuikov rất tức giận khi Nguyên soái Zhukov ra lệnh cho Tập đoàn quân Cận vệ 8 của ông phải chuyển hướng sang thành phố pháo đài Poznan, trong khi các tập đoàn quân khác đang ào ạt tiến về phía sông Oder. Zhukhov chính là người đã từng bị Chuikov ghét cay ghét đắng vì giành được quá nhiều vinh quang trong trận Stalingrad. Trận công phá Poznan là trận chiến đường phố khó khăn nhất mà Hồng quân phải đối mặt kể từ sau trận Stalingrad.
1 chỉ huy trung đoàn phàn nàn: "Vậy đấy, chúng tôi xông vào phố, đám thường dân chạy về phía quân ta và kêu lên: "Những người giải phóng của tôi! Những vị cứu tinh của tôi!" Ngay lúc đó bọn Đức phản kích và đẩy lùi quân ta. 1 khẩu pháo tự hành của chúng xuất hiện. Và tôi nhìn thấy vẫn những thường dân đó chạy ngược trở lại và bắt đầu ôm chầm lấy bọn Đức. Vậy là tôi lệnh cho bắn thẳng vào chúng bằng đạn ghém."
Trận chiến đường phố vẫn đang tiếp diễn. Những khu phố ko có chiến sự đầy chật người. Những quý bà quý cô đội những cái mũ kiểu cách, mang túi sách điệu đà đang sẻ thịt 1 con ngựa chết nằm trên vỉa hè.
Chuikov đang tổ chức cuộc chiến đường phố tại Poznan. Sau trận Stalingrad, ông được xem là chuyên gia số 1 về tác chiến đô thị. Về mặt lý thuyết, bản chất của trận Stalingrad là bộ binh ta đóng những cái nêm vào giữa các đơn vị cơ giới Đức và những điểm yếu của bộ binh Đức. Còn bây giờ, hoàn cảnh đưa đẩy Viện sĩ hàn lâm (*) Chuikov vào tình thế ko thể từ chối giải quyết cùng 1 tình huống như ở Stalingrad, nhưng đây là Poznan, vai trò của ông hoàn toàn ngược lại. Ông đang tấn công dữ dội quân Đức tại các con phố Poznan bằng lực lượng cơ giới khổng lồ và chút ít bộ binh. Và ngày càng có nhiều tên Đức lì lợm chống trả trong 1 cuộc chiến với chúng là vô vọng.
Chuikov đang ngồi trong căn phòng lạnh lẽo, sáng đèn dưới tầng 1 của 1 villa 2 tầng. Điện thoại đang reo trên bàn, các chỉ huy đơn vị báo cáo về trận chiến đường phố Poznan. Trong những quãng tạm nghỉ giữa các cuộc điện thoại và báo cáo, Chuikov nói với tôi về trận đánh chọc thủng tuyến phòng ngự Đức tại khu vực Warsaw.
"Chúng tôi đang học tập người Đức cách đặt lịch trình làm việc từng ngày cho mỗi tháng. Ban ngày, quân địch thường bỏ tuyến chiến hào đầu tiên và quay lại đó vào ban đêm. Vì vậy trước khi tiến công, chúng tôi gửi các thông điệp vô tuyến suốt đêm, bật nhạc và nhảy nhót, làm mọi thứ trở nên hỗn độn đồng thời đưa tất cả các đơn vị lên các vị trí tuyến đầu.
"Vào 8h30, thời điểm mà quân địch thường rời khỏi tuyến đầu, chúng tôi khai hoả 1 loạt 250 khẩu pháo. Ngay ngày đầu tiên quân ta đã chọc thủng tuyến đầu. Chúng tôi nghe được điện đài Đức, trong đó viên chỉ huy Tập đoàn quân 9 gọi các sư đoàn trực thuộc mà chẳng nhận được câu trả lời kặk nào (bloody - Maseo dịch thoát). Vào lúc đó quân ta đã đập tan 2 sư thiết giáp ngay tại chỗ tập trung của chúng ở tuyến sau. Tổng thể thì chúng tôi làm theo cách sau: 1 đợt ko kích, 1 đợt pháo kích và sau đó là tiến công. Sáng hôm đó có sương mù. Chúng tôi đã giữ chúng trên 1 cái đe là tuyến đầu quân ta và đập chúng bằng cái búa là lực lượng pháo binh. Nếu chúng tôi chỉ cần chậm 1h, quân ta sẽ bắn vào những vị trí trống. Và bọn Đức có vẻ như đã kiệt sức ở tầm chiến lược, chỉ có toàn Landwehr và Volkssturm ở đó.(**)
Chuikov nghe điện thoại, lại gần bản đồ để xem và nói: "Tôi sắp phải đeo kính đến nơi rồi." Ông đọc 1 báo cáo, cười mãn nguyện và rê bút chì trên tờ lệnh. Ông nói: "Cánh phải của Marchenko có lẽ đã cảm nhận được sức mạnh hoả lực của Glebov. Đó là kiểu bắn gối đầu, cũng sẽ sớm có liên lạc thôi." Ông quát vào telephone: "Nếu chúng định thọc về phía tây hãy để chúng ra chỗ trống rồi nghiền nát chúng như thịt băm, bọn chó chết."
(*) Grossman dựa theo 1 câu đùa cũ của chính Chuikov khi ông này nói rằng mình đã tìm ra 1 Viện hàn lâm về chiến tranh đường phố tại Stalingrad.
(**) Thực ra ko có Landwehr, đây là tên lực lượng dự bị địa phương trong WW1, Volkssturm là lực lượng thay thế cho lực lượng trên dưới thời Nazi. Các sĩ quan thường gọi lực lượng gồm những người già và trẻ con này là "món hầm", 1 thứ hỗn hợp khó nhai gồm thịt thiu và rau xanh.
Sau đó Chuikov tiếp tục nói chuyện với Grossman.
"Lính tráng tỏ ra buồn chán khi phải phòng ngự. Họ khao khát được kết thúc chiến tranh. Họ khởi động trong 2 - 3 ngày, và sau đó tiến 30 - 50km mỗi ngày.
"Thực sự là có những vụ cướp bóc trong lúc hành tiến: 1 chiếc tăng đang đi, 1 chú lợn sữa ngồi vắt vẻo trên chắn xích. Chúng tôi dừng lại để cho quân ăn, thức ăn của ta chưa bao giờ đủ ngon đối với binh lính. Cánh lái xe đang chạy quanh các toa hàng, chơi accordion y như trong quân đội của Makhno (*).
"Pháo đài Poznan ... Quân ta đang di chuyển trên đỉnh pháo đài, bọn Đức bắn lên từ trong pháo đài. Thế là công binh đổ vào trong khoảng hơn 200 lít dầu lửa rồi đốt, bọn Đức nhảy vọt ra như chuột. Và anh biết điều ngạc nhiên nhất là gì ko, với tất cả kinh nghiệm chiến tranh và những trinh sát hoàn hảo, chúng tôi đã bỏ sót 1 điều vặt vãnh. Chúng tôi đã ko để ý rằng Poznan là pháo đài hạng nhất, 1 trong những pháo đài mạnh nhất Châu Âu. Chúng tôi nghĩ nó chỉ như các thị trấn khác và định chiếm nó trong hành tiến, và thế là chúng tôi kẹt ở đây."
Poznan đã ko thất thủ hoàn toàn cho đến tận khi Chuikov ra lệnh tổng tấn công pháo đài ngày 18/2, sau 9 ngày pháo kích nặng nề. Vào lúc đó những lính phòng thủ trong vòng vây đã bị bỏ cách quân nhà 200km. Lựu pháo 203mm bắn thẳng vào tường ở tầm trực xạ để đục thủng nó, sau đó đến lượt súng phun lửa và lựu đạn được sử dụng để quét sạch hết phòng này đến phòng khác. Đêm 22/2, thiếu tướng Ernst Gomell chỉ huy quân Đức tại pháo đài nằm lên lá cờ chữ thập ngoặc trong phòng mình rồi tự sát bằng súng. Lính phòng thủ pháo đài đầu hàng.
Grossman đã ko đợi đến lúc cuộc công phá pháo đài kết thúc, ông đi theo các đơn vị tiền tiêu của Tập đoàn quân 8 Cận vệ tiến vào lãnh thổ Đế chế Đức. Mặc dù rất muốn lý tưởng hoá những người lính Hồng quân bình thường, ông cũng cảm thấy ghê sợ với tệ nạn rượu chè của họ.
Cái chết dớ dẩn của đại tá Anh hùng Liên Xô Gorelov, chỉ huy lữ đoàn tăng Cận vệ. Đầu tháng 2, ông chọn 1 điểm dừng chân dọc đường cách biên giới Đức vài km, tại đây ông bị 1 lính Hồng quân say rượu bắn chết. Katukov (**) đã từng rất quý mến Gorelov; khi ra lệnh cho Gorelov và Babadzhanyan ông thường gọi họ bằng tên thân mật: Volodya và Arno. Đây ko phải ví dụ duy nhất về những vụ say rượu tồi tệ.
Tất cả công dân Soviet, bất kể lính hay dân thường, đều cảm thấy choáng váng với sự thay đổi khi vượt qua biên giới Đức. Số lượng lớn kỳ lạ của các công trình hoàn hảo và sự phồn hoa ở nơi này khiến họ ko hiểu sao những người sống ở đây lại muốn rời bỏ nó để đi xâm lược nước Nga.
Mờ sáng, sương mù và mưa phùn. Mùi ẩm mốc phát ra từ rừng cây. Có những vũng nước trên đường. Những cây thông đen, trang trại, kho thóc, những ngôi nhà chóp nhọn. 1 khẩu hiệu lớn: "Hỡi những người lính, đây chính là Hang ổ của con quái vật Phát xít."
Phong cảnh nơi đây thật mê hoặc. Cây cối thấp nhưng to và rất đẹp, những con đường trải nhựa hoặc láng xi măng cũng đẹp. Những cỗ xe của pháo binh, pháo tự hành, xe tham mưu của quân ta chất đầy chiến lợi phẩm đang đi từ Poznan tới trông thật thảm hại.
1 cô gái Nga mới được giải thoát tên là Galya nói với tôi về cách đối xử khác nhau giữa những người bị bắt từ những nơi khác nhau trên thế giới: "Có quy định khác dành riêng cho người Pháp."
(*) Nestor Makhno lãnh đạo 1 lực lượng du kích lớn theo chủ nghĩa vô chính phủ ở Ukraina trong thời Nội chiến, đánh cả 2 phe Bạch vệ và Hồng quân. Họ di chuyển rất nhanh bằng những cỗ xe ngựa loại nhỏ, 1 số có gắn súng máy.
(**) Đại tướng M. I. Katukov, chỉ huy Tập đoàn quân Xe tăng Cận vệ 1 đã chiến đấu cùng Tập đoàn quân Cận vệ 8 trên mọi nẻo đường từ Vistula đến cuộc tấn công cuối cùng vào Berlin.
Từ Poznan đến biên giới Đức trước năm 1939, tuyến đường nối Kustrin và Berlin dẫn họ qua thị trấn Schwerin. Khi tới đây Grossman nhận thấy Tập đoàn quân Cận vệ 8, đơn vị mà ông từng rất ngưỡng mộ ở Stalingrad, đang cướp bóc và hãm hiếp. Sau chiến tranh, Grossman xác nhận với con gái rằng "Hồng quân đã biến thành 1 đạo quân xấu xa ngay sau khi vượt qua biên giới Soviet."
Mọi thứ bốc cháy, cảnh cướp bóc diễn ra khắp nơi. Gekhman và tôi được cấp 1 ngôi nhà còn sót lại. Mọi thứ còn chưa bị động tới, bếp lò vẫn còn ấm, 1 cái ấm nước nóng vẫn đang đặt trên bếp, chủ nhân ngôi nhà chắc vừa chạy khỏi đây ko lâu, những cái đĩa vẫn còn đầy. Tôi dứt khoát cấm động vào chúng (cả với chính tôi). Sỉ quan chỉ huy thị trấn tới đề nghị tôi cho 1 đại tá vừa từ Bộ Tổng tham mưu tới ở cùng. Tất nhiên tôi đồng ý. Vị đại tá thật oai vệ, khuôn mặt tốt bụng đặc Nga. Suốt đêm chúng tôi phải nghe tiếng ngáy vẳng ra từ căn phòng nơi vị đại tá mệt mỏi đang ở. Sáng hôm sau ông ta bỏ đi ko nói ko rằng. Chúng tôi vào phòng ông: thật hỗn độn, vị đại tá đã vét sạch những cái đĩa như 1 tên kẻ cướp chính hiệu.
1 bà già lao mình ra khỏi cửa sổ 1 ngôi nhà cháy.
Chúng tôi vào nhà, có 1 vũng máu trên sàn, giữa vũng máu là 1 ông cụ, bị 1 tên kẻ cướp bắn chết. Có vài cái chuồng thỏ và chim ngoài sân, chúng tôi mở cửa để cứu chúng khỏi ngọn lửa, 2 con vẹt đã chết trong lồng.
Sự khiếp sợ hiện rõ trong mắt những người phụ nữ già trẻ.
Tại nhiệm sở của sĩ quan chỉ huy thị trấn. 1 nhóm tù binh Pháp phàn nàn rằng 1 số lính Hồng quân đã lấy đồng hồ của họ, chỉ đưa cho họ 1 rub cho mỗi chiếc.
1 phụ nữ Đức vận đồ đen, cặp môi khô nẻ, đang nói bằng giọng thì thào. Bà ta đến cùng cô con gái vị thành niên trên mặt và cổ đầy vết thâm tím, mắt sưng húp, tay có vết bầm tím ghê sợ. Cô gái này bị 1 lính đại đội thông tin của sở chỉ huy tập đoàn quân hiếp. Hắn cũng đang ở đây, má đỏ hồng, mặt phị mỡ, mắt lờ đờ. Viên chỉ huy thị trấn cật vấn hắn mà ko có vẻ nhiệt tình lắm.
Những điều đáng sợ đang diễn ra với phụ nữ Đức. 1 trí thức Đức đang nói bằng thứ tiếng Nga lắp bắp kèm cử chỉ kích động rằng vợ anh ta đã nhận mấy "người khách mới" - tức là lính Hồng quân - vào ở nhờ và đã bị 10 người hiếp ngày hôm nay. Người vợ cũng đang có mặt ở đó.
Nhiều tiếng thét của phụ nữ vọng ra từ cửa sổ. 1 sĩ quan người Do thái đã bị bọn Đức giết hết cả nhà được yêu cầu ở lại trong tầng hầm nhà 1 tên Gestapo đã đào tẩu. Đám phụ nữ còn lại trong nhà được an toàn khi anh ta còn ở đó, khi anh ta đi, tất cả họ đều khóc lóc van xin anh ở lại.
Những cô gái Soviet được giải thoát khỏi các trại tập trung giờ cũng phải chịu đựng nhiều đau khổ. Đêm xuống, vài cô trốn nhờ vào phòng dành cho phóng viên của chúng tôi. Cả đêm chúng tôi bị đánh thức vì những tiếng thét: 1 trong số các phóng viên đã ko thể cưỡng được sự cám dỗ. Sự ầm ĩ này gây nên 1 cuộc tranh luận và sau đó trật tự được tái lập.
Câu chuyện về 1 người mẹ đang cho con bú đã bị hiếp trong nhà kho. Họ hàng của cô tới bên nhà kho yêu cầu kẻ đang hãm hiếp cô buông tha cho cô 1 lúc vì đứa trẻ cứ khóc suốt vì đói.
Ban đêm vẫn sáng tỏ, mọi thứ bốc cháy.
Khi đại tá Mamaev bước vào 1 ngôi nhà Đức, 4 - 5 đứa trẻ im lặng đứng dậy giơ tay hàng.
Việc giải phóng nước Đức dẫn tới nhiều số phận đảo ngược 1 cách kịch tính. Những tù nhân và nô lệ giờ cướp bóc lại những tên chủ cũ. Nhiều phụ nữ Liên Xô trẻ đã bị gửi tới Đức từ các vùng tạm chiếm để làm việc trong các nông trại hay nhà máy. Những tù binh Hồng quân thì còn phải chịu đau khổ hơn cả nô lệ trong các trại tù binh.
Những đám đông khổng lồ đang đi trên đường. Tù binh từ mọi quốc gia: Pháp, Bỉ, Hà Lan ..., tất cả đều mang theo đồ cướp được. Chỉ có người Mỹ là đi bộ mà ko mang gì, thậm chí ko có cả mũ, họ ko cần gì hết ngoại trừ rượu, 1 số chào đón chúng tôi bằng cách vẫy những cái chai. Thường dân đến từ các nước châu Âu khác đi những con đường khác, phụ nữ mặc áo hở ngực, cả đám kéo theo hàng ngàn chiếc xe đẩy chất đầy đồ cướp được. Thật là 1 cảnh hỗn loạn điên rồ và buồn cười. Đâu là người phương Đông? và đâu là người phương Tây?
Những thương phế binh - tù binh Hồng quân được giải phóng. 1 người trong số họ có vẻ buồn rầu và ốm gần chết nói: "Tôi sẽ chẳng bao giờ về được tới nhà." Khi bọn Đức định thủ tiêu họ, những thương phế binh này đã cắt dây thép gai, cướp được 1 khẩu tiêu liên và 1 cây súng trường, và quyết chiến.
1 cô gái Nga bị đưa tới Đức làm nô lệ nói: "Bọn Frau (Đức) xuống địa ngục hết đi. Tôi chỉ tiếc là đã bỏ sót đứa con trai 6 truổi của mụ ấy."
Sau Schwerin, Grossman tới Landsberg, hạ lưu sông Warthe, con sông này đổ vào sông Oder tại Kustrin. Theo cách tính toán gần với ý tưởng của Stalin, đại quân Soviet có trách nhiệm đánh cướp số tài sản Đức tương ứng với những gì mà Liên Xô bị tàn phá trong chiến tranh. Các nhân viên kế toán dân sự ăn vận oai ko kém 1 đại tá Hồng quân, những người Đức ngoan ngoãn mở các két sắt trước mặt họ. Sẽ có vấn đề thực sự tồi tệ với lính Hồng quân nào định mở két để lấy tiền cho riêng mình. Họ thường xài 1 cây Panzerfaust, kết quả là két sắt bị phá tan cùng với mọi thứ bên trong.
1 két sắt tại Landsberg. Nhiệm vụ của chúng tôi là mở nó. Bên trong có vàng, trang sức, nhiều bức ảnh chụp trẻ con, phụ nữ và người già. 1 thành viên đội tháo két nói với tôi: "Chúng giữ mấy bức ảnh ở đây làm cái căng củ cọt gì nhỉ?"
Sư trưởng nói với sư phó, người vừa tới để chỉ đạo việc bắn pháo sáng được chuẩn hơn: "Tôi ị vào đống pháo sáng của anh. Ngồi xuống và ăn tối với tôi nào."
Trong cửa hàng văn phòng phẩm của 1 tên Đảng viên Nazi béo ị, vào ngày mà hắn tan tành sự nghiệp. 1 cô bé đến vào buổi sáng, yêu cầu hắn cho xem mấy tấm bưu thiếp. Lão già to béo, âu sầu, thở khó khăn ném 1 tá bưu thiếp lên bàn trước mặt cô bé. Cô bé cẩn thận lựa chọn rất lâu rồi lấy 1 tấm in hình 1 cô gái mặc váy đẹp đứng bên 1 quả trứng vỡ, 1 chú chim đang bay ra khỏi quả trứng. Lão già nhận 25 xu của cô bé, bỏ vào máy thu tiền. Tối đó hắn chết trên giường, tự sát bằng thuốc độc. Cửa hàng vừa đóng cửa, 1 đám người ồn ã vui vẻ đã ào vào mang hết đồ đạc tài sản ra khỏi căn hộ của hắn.
Ngay khi bắt kịp những người bạn và người quen cũ, Grossman lại hỏi han về những câu chuyện của họ. Babadzhanyan, giờ là chỉ huy Quân đoàn xe tăng cận vệ 11 trong Tập đoàn quân Xe tăng Cận vệ 1 của Katukov, vị chỉ huy dũng cảm mà Grossman tưởng đã hy sinh năm 1941.
Câu chuyện của Babadzhanyan: "Chúng tôi xuất phát tại Vistula tối 15/1 qua 1 lỗ thủng trên tuyến phòng ngự địch đối diện khu vực do Chuikov phụ trách và tới Oder ngày 28/1. 1 viên đại uý Đức đang tới Poznan lấy thuốc lá đã bị chúng tôi thộp cổ ngay trên biên giới. Có 1 hôm quân ta tiến được tới 120km. Tất cả các việc chính đều được tiến hành trong đêm, ban đêm xe tăng sẽ được an toàn hơn. Xe tăng ta là lực lượng đáng sợ vào ban đêm, họ có thể thọc sâu tới 60km dù ko có người dẫn đường địa phương giống như những gì họ đã làm trên đất Ba Lan. Tuy nhiên người dẫn đường địa phương cũng rất quan trọng, 1 đêm có 1 ông già người Đức đã dẫn xe tăng ta thọc sâu rất thành công.
"1 viên tướng Đức bình thản cởi quần áo chui vào giường sau khi đánh dấu trên bản đồ là đối phương còn cách 60km, và hắn bị chúng tôi xông vào nhà lúc nửa đêm."
Grossman cũng tới gặp Gusakovsky lần nữa, viên sĩ quan tỏ ra ko biết khiêm tốn là gì.
Lữ đoàn của Gusakovsky đã thành công rực rỡ. Mặc dù cầu cống đều bị phá huỷ và khắp nơi đầy chướng ngại vật chống tăng nhưng vẫn còn 1 con đường nguyên vẹn. Bọn Đức định dùng nó cho 1 cuộc phản công. Gusakovsky đã xông theo con đường này, vòng qua tất cả các điểm phòng ngự của địch. Lữ đoàn của ông ngao du trong vùng hậu phương địch suốt 2 ngày trong khi các lữ đoàn khác phải đi vòng vèo hoặc tấn công trực diện vào các cứ điểm địch.
Đại tá Gusakovsky, 2 lần Anh hùng Liên Xô, chỉ huy lữ đoàn tăng: "Thành phố (chắc là Landsberg) bị 1 đại tá chiếm, trong khi lệnh của Tổng tham mưu trưởng (Nguyên soái Zhukov) đã giao việc này cho 10 viên tướng."
Khi Hồng quân tiến tới Berlin, từ sĩ quan đến binh lính đều ước mơ bắt sống được Hitler. Họ tin tưởng mình sẽ được thưởng Sao Vàng Anh hùng Liên Xô và trở nên nổi tiếng suốt đời. Trong khi đó các sĩ quan tình báo trong các sở chỉ huy miệt mài bên những tài liệu thu được từ các phòng lãnh sự Đức với hi vọng tìm ra thêm nhiều điều nữa về những kẻ lãnh đạo Nazi. "Trong 1 phòng phụ trách tình báo, tôi được cho xem 1 tờ lệnh có chữ ký của Hitler, bên dưới có dòng chữ và chữ ký: "Xác nhận đúng bản gốc, Đại uý Sirkis.""
Đầu tháng 2, Grossman tới Oder, con sông cuối cùng trước Berlin. Lính Hồng quân tính đường sang hướng tây theo đơn vị "con sông", bắt đầu bằng sông Volga ở Stalingrad, và Grossman cũng vậy.
Chúng tôi tới Oder trong 1 buổi sáng đẹp trời, nơi này đã gần Berlin lắm rồi. Cảm giác thật kỳ lạ khi đi trên con đường nông thôn đầy bùn, giữa những bụi gai nhỏ, cây thấp mọc lố nhố, những quả đồi nhỏ dốc xuống sông, những ngôi nhà nhỏ nằm rải rác đây đó trên cánh đồng phủ đầy cỏ sau vụ đông - tất cả cảnh vật này đã từng hiện ra nhiều lần dưới mắt tôi trên suốt quãng đường 80km tới Berlin.
Và bất thần, trong buổi sáng mùa xuân đó, bên dòng sông Oder, tôi nhớ tới những gì xảy ra trong mùa đông sắt máu 1942, trong cơn bão tuyết tháng 1 dữ dội, trời đêm đỏ thẫm vì ánh lửa phát ra từ những ngôi làng bị bọn Đức đốt, 1 chú đánh xe ngựa quấn mình trong chiếc áo khoác da cừu bất thần kêu lên: "Hey, đồng chí, đến Berlin đi đường nào?" Cánh lái xe ô tô và xe ngựa cười ran. Tôi tự hỏi ko biết anh chàng vui tính đó, người hỏi đường tới Berlin ở gần Balakleya, còn sống hay chăng? Và cả những người đã bật cười vì câu hỏi 3 năm về trước đó? Tôi muốn gào lên, thét lên với tất cả những người anh em binh sĩ, những người đã nằm lại mãi mãi trên đất Nga, Ukraina, Belorussia, Ba Lan rằng: "Các đồng chí, có nghe thấy chúng tôi nói gì ko? Chúng tôi đã làm được!"
Ngày thứ 2 sau khi Hồng quân xâm lược nước Đức, chúng tôi bắt gặp 1 đoàn 800 trẻ em Soviet đang đi bộ về hướng đông thành hàng dài tới vài km. 1 số binh lính và sĩ quan đứng bên đường, chăm chú và câm lặng nhìn kỹ từng khuôn mặt đám trẻ. Họ là những người cha đang đi tìm con bị bọn Đức bắt đi. 1 viên đại tá đã đứng đó suốt 4h, lưng thẳng, mặt đanh lại tối sầm và buồn bã. Đến chập tối ông mới trở lại xe: ông đã ko tìm thấy con.
Tôi xem những cuốn vở của học sinh ở trường. Ngay từ lớp nhất phần lớn là các bài tập, tiểu luận, văn miêu tả, được viết bằng nét chữ xiên xẹo của trẻ con, tất tật đều về đề tài chiến tranh và thành tựu của Đảng quốc xã. Chân dung, tranh cổ động, slogan trên tường lớp học đều chỉ nhằm 1 mục đích - tôn vinh Hitler và chủ nghĩa phát xít ...
Những người dân Đức đã chối bỏ mọi tội lỗi, sự tàn phá khủng khiếp cùng những nỗi đau khổ mà nước Đức phát xít và đội quân của nó đã gây ra cho đất nước Liên Xô.
HAI BẢY
TRẬN BERLIN
Đầu tháng 1, ngay sau khi các tập đoàn quân của Zhukov tiến tới sông Oder, cách Berlin chưa đầy 100km, hàng quân đã dừng lại. Chỉ huy Tập đoàn quân Cận vệ 8 Chuikov chỉ trích Zhukov vì thất bại trong việc tấn công Berlin ngay. Thực tế là chính Stalin đã cấm mở rộng tiến công vì các đơn vị xe tăng cần được tái trang bị còn bộ binh đã quá kiệt sức. Stavka lệnh cho Zhukov và Rokossovsky quét sạch cánh phải là vùng Pomerania trên bờ biển Baltic. Nhiệm vụ này cùng với việc tái bố trí các tập đoàn quân sau đó có nghĩa là chiến dịch cuối cùng đánh vào Berlin phải lùi lại đến giữa tháng 4.
Vào lúc này Grossman đã quay về Moscow nhưng ông cương quyết đòi quay lại Berlin để chứng kiến giờ phút tận số của nó. May mắn thay, các đồng đội phóng viên của ông bao gồm cả chiến hữu cũ Troyanovsky đều yêu cầu ông có mặt ở đó và tờ Krasnaya Zvezda đã cho ông đi đúng lúc. Sau này Troyanovsky kể: "Hôm 14/4, các phóng viên tờ Krasnaya Zvezda được tướng K. F. Telegin thành viên Hội đồng quân sự Mặt trận mời đến. "Tôi sẽ viết giấy giới thiệu cho các anh qua sông Oder," ông nói. "Các anh có thể chọn bất kỳ tập đoàn quân nào, chỉ có điều tôi đề nghị các anh đừng tập trung hết vào tập đoàn quân của Chuikov." Có lẽ Nguyên soái Zhukov ko muốn viên chỉ huy đã chỉ trích mình giành được mọi sự quảng cáo.
Chiến dịch mở màn ngày 16/4, Phương diện quân Belorussia 1 của Zhukov tấn công về hướng tây từ Oder nhằm thẳng vào Berlin, trong khi đó Phương diện quân Ukraina 1 của Nguyên soái Konev tấn công lệch về phía nam từ tuyến sông Neisse. Sau đó Stalin cho phép Konev chuyển hướng về phía Bắc nhằm vào Berlin, ông muốn tạo ra 1 cuộc đua quyết liệt giữa 2 vị nguyên soái nhằm nhanh chóng bao vây tiêu diệt Berlin. Sau khi người Mỹ chiếm được cầu Remagen ngày 7/3, Stalin sợ rằng họ có thể đến Berlin trước.
Các lực lượng của Zhukov đã phải trải qua 1 thời gian khó khăn hơn dự định khi tiến công ồ ạt vào các điểm cao tại khu vực Seelow nằm trên vùng đồng bằng ngập nước của sông Oder, họ chịu nhiều thương vong trong khi các chỉ huy liên tục thúc ép tiến lên. Pháo binh đến tận tối 20/4 mới di chuyển được tới vị trí đủ sức bắn tới Berlin nhưng trận công phá thành phố chỉ bắt đầu 4 ngày sau đó. Tập đoàn quân Cận vệ 8 của Chuikov và Tập đoàn quân Xe tăng Cận vệ 1 của Katukov đánh từ phía đông nam, Tập đoàn quân Xe tăng Cận vệ 2 và Tập đoàn quân Xung kích 3 đánh từ phía bắc, Tập đoàn quân Xung kích 5 đánh từ phía đông. Quân của Konev là các Tập đoàn quân Xe tăng Cận vệ 3 và Tập đoàn quân 28 cũng tiến về thành phố từ hướng nam và các đơn vị bạn đã bắt đầu pháo kích vào nhau. Vào lúc này Grossman đang trên đường từ Moscow tới Berlin, ông rời thủ đô Soviet để thực hiện chuyến đi cuối cùng với tư cách là phóng viên chiến tranh ngày 20/4, ngày sinh nhật cuối của Hitler. Sau này ông kể lại trong 1 bài viết về những gì nhìn thấy và suy nghĩ trên đường tới Berlin.
1 ngôi làng đã bị bọn Đức đốt. Tất cả những gì còn lại là những đống gạch vụn, 1 cái giếng đã bị lấp và 1 số khung nhà thép gỉ sét. Khói vẫn bốc lên từ 1 chỗ đất thấp cách đó ko xa, đó là nơi các cư dân trước đây của ngôi làng đang sống trong những công sự do Hồng quân đào trong quá trình chiến đấu. 1 bà già tóc bạc trắng, các con trai đều đã chết trong chiến tranh, đưa cho chúng tôi 1 gáo nước và nói bằng giọng u uất: "Chúng ta có hồi sinh được ko?" và bà chỉ ngôi làng đã cháy trụi với 1 cái lắc đầu.
Xa hơn nữa trên con đường cái quan là Neva, rồi Volkhov, rồi Terek, rồi tới những cánh rừng Karelia xum xuê, những núi non Caucasus, những đồi, những gò, đâu đâu cũng đầy mộ lính.
Những đứa trẻ, những binh lính, hạ sĩ quan, sĩ quan Hồng quân, những chàng trai tốt bụng đã vĩnh viễn ngủ say. Suốt dọc con đường chúng tôi đi đầy những nấm mộ của những người con đã hy sinh được đóng 1 tấm bia gỗ với mấy nét chữ khắc vội. Những cơn mưa bào mòn dần những cái tên, tập hợp tất cả họ thành 1 cái tên duy nhất.
Chiếc xe bị hỏng máy gần biên giới Ba Lan và chúng tôi phải chờ nhiều giờ ngoài đồng trống. Trong khi chờ sửa xe, tôi tới thăm 1 căn nhà nhỏ, hôm đó là chủ nhật, bà chủ nhà và các con đã đi nhà thờ, chỉ còn 1 bà cụ và 1 khách qua đường đang ở nhà, anh ta là 1 người lính đã được cho giải ngũ vì bị thương. Anh kể giờ anh ko còn phải đi bộ quá xa nữa, anh sắp tới đích là vùng Orel rồi. Chúng tôi bắt đầu nói chuyện. Người khách tên là Alexei Ivanovich, tuổi ngoài 40. Anh đã chiến đấu trên tiền tuyến từ ngày đầu chiến tranh và đã 3 lần bị thương, anh là lính 1 đơn vị cối. Áo khoác của anh rách tả tơi vì mảnh đạn và dính đầy dầu mỡ, anh đội mũ ushanka mùa đông, quấn xà cạp và đi 1 đôi ủng nặng nề, đồ đạc mang theo là chút ít thứ có thể xách được về nhà. Anh đã ở nhờ tại đây khoảng 2 tuần, giúp bà chủ nhà gieo hạt để được trả công 3 pút lúa mạch và sẽ được đi nhờ ngựa ra ga chiều tối nay, hy vọng sẽ lên được 1 toa hàng rỗng nào đó đang trên đường từ tiền tuyến về để đỡ 1 quãng đường về nhà. Alexei Ivanovich hết sức vui mừng vì kiếm được số lúa mạch này, anh còn dẫn tôi lên đồi và mỉm cười khi thấy tôi vỗ vỗ lên những túi lúa căng đầy.
Sau đấy anh kể tôi nghe bọn Đức đã đốt làng anh như thế nào, gia đình anh hiện đang phải sống trong những căn hầm đào dưới đất. “Sẽ rất tốt nếu tôi ko trở về nhà với 2 bàn tay trắng,” anh nói. “Tôi sẽ mang về cho mọi người chút lương thực, tôi đã thấy họ khó khăn thế nào khi tôi được về phép sau lần bị thương thứ 2. Ko hiểu họ sống kiểu gì trong những căn hầm? Nó tối tăm ẩm ướt, nhiều sâu bọ. Mùa hè thì mọi sự ko quá tồi tệ nhưng mùa đông thì quả thật là khó khăn.”
Grossman cũng có nhiều ghi chép trong chuyến ra mặt trận cuối cùng này.
Trên chiếc jeep Willy rời Moscow, đi qua Minsk chúng tôi nhìn thấy có lửa cháy, người ta đang đốt cỏ dại mọc trên đồng trong chiến tranh.
Bầu trời xám xịt, mưa suốt 3 ngày. 1 mùa xuân sắt máu tiếp theo những năm chiến tranh sắt máu. 1 thời kỳ hòa bình khó khăn đang đến sau những năm chiến tranh khó khăn: những trại tù binh đang được xây dựng khắp nơi, dây thép gai được rải, tháp canh được xây để trông giữ những tên tù binh Đức đang được những đội hộ tống đưa tới. Sau khi chiến tranh kết thúc chúng sẽ phải sửa những con đường bị tàn phá vì sự di chuyển của quân đội.
Quãng đường từ Brest đến Warsaw cũng bị tàn phá nặng nề. Nhưng đi quá về phía tây thì đường xá khô ráo hơn và trời cũng đẹp hơn. Những hàng cây bên đường – táo vào sơ ri, đều đang trổ hoa. Trong những nhà nghỉ thôn dã của dân Berlin phủ đầy hoa – tulip, tử đinh hương, hoa hồng, táo, sơ ri và mơ, chim hót véo von. Tự nhiên ko hề tỏ vẻ tiếc thương cho ngày tàn của chủ nghĩa phát xít.
Tại thị trấn Landsberg gần Berlin, trẻ con đang chơi đùa trên nền các ngôi nhà. Các chiến sĩ ta vào lúc này đang dứt điểm đế quốc Đức tại Berlin, còn tại đây lũ trẻ với gươm giáo gỗ, chân khẳng khiu dài nghêu, tóc cắt ngắn sát đầu, ngón tay vàng sỉn, đang gào thét chói tai, đâm chém nhau, nhảy nhót man dại, như thể nơi đây đã phát sinh 1 cuộc chiến mới, bất tận, vĩnh cửu.
Vòng xoay trên xa lộ Đức. Các câu chuyện kể rõ ràng đã phóng đại độ rộng của nó.
Con đường cao tốc dẫn tới Berlin. Những đám đông người mới giải phóng. Hàng trăm nông dân Nga râu ria xồm xoàm đang cuốc bộ qua cùng 1 số phụ nữ và rất nhiều trẻ con. Gương mặt các nông dân phủ đầy râu và những người lớn tuổi hơn trông có vẻ tối tăm ảm đạm. Họ là các starosta (*), những tên cảnh sát địa phương hạ tiện, chúng đã chạy tới tận Berlin và giờ buộc phải bỏ nơi đó. Người ta nói Vlasov đã tham gia trận đánh cuối cùng tại Berlin cùng với người của hắn (**).
Càng gần tới Berlin, cảnh vật xung quanh trông càng giống vùng ngoại ô Moscow.
1 bà già đang cuốc bộ theo hướng ngược với Berlin, đầu trùm khăn. Trông bà chính xác như đang đi hành hương - cuộc hành hương về những miền đất Nga. Bà mang 1 cái ô trên vai, cán ô treo 1 cái nồi nhôm vĩ đại.
Weissensee - ngoại ô thành phố. Tôi dừng xe. Vài chú bé táo bạo và ranh mãnh đến xin sô cô la khi nhận thấy tôi đeo túi bản đồ.
Trái với suy nghĩ cho rằng Berlin là 1 trại lính khổng lồ, tại đây có rất nhiều khu vườn đang trổ hoa. Dù trên ko vẫn vang lên tiếng đại bác nhưng trong những phút tạm ngừng người ta vẫn có thể nghe thấy tiếng chim.
(*) Starosta: già làng hoặc trưởng làng do bọn Đức chỉ định, họ có lý do để sợ sự trừng phạt của NKVD và đã chạy sang Đức để trốn chạy những bước tiến của Hồng quân.
(**) Lời đồn này sai, tướng Vlasov và phần lớn quân của hắn ở Tiệp Khắc và vào thời điểm cuối cùng đã chuyển sang phe những người nổi dậy Czech chống bọn Đức tại Praha, tuy nhiên điều này ko giúp hắn trốn được số phận khi rơi vào tay những người báo thù NKVD. Vlasov đã bị 1 đơn vị xe tăng Soviet bắt sống và đưa về Moscow, tại đó hắn bị tra tấn và xử tử.
Grossman đi theo 1 trong những vị chỉ huy nổi tiếng nhất của Zhukov, tướng Berzarin (*). Nguyên soái Zhukov đã kế tục truyền thống có từ thời Nga Sa hoàng khi chỉ định Berzarin, chỉ huy Tập đoàn quân Xung kích 5, làm chỉ huy quân quản Berlin vì đơn vị của ông là đơn vị đầu tiên tiến vào thành phố. Thực tế đây là 1 sự lựa chọn sáng suốt. Berzarin đã ko chờ đến lúc chiến sự kết thúc. Ông đã có nhiều nỗ lực để khôi phục lại các hàng hoá dịch vụ thiết yếu ngay khi có thể - 1 nhiệm vụ khổng lồ sau khi Berlin sụp đổ - và đảm bảo cho ko người dân nào phải chết đói. Nhiều người dân Berlin kính trọng ông, và khi ông chết vài tuần sau đó trong 1 tai nạn mô tô đã có tin đồn lan truyền rằng ông bị NKVD ám sát.
Chỉ huy quân quản, tướng Berzarin, đang có buổi phỏng vấn với tờ Burgermeister. Phóng viên hỏi những người bị điều chuyển đi làm việc theo yêu cầu của quân đội sẽ được trả bao nhiêu. Thực chất câu hỏi này là để biết chính xác quyền của họ ra sao.
Thượng tướng Berzarin, chỉ huy quân quản Berlin, là 1 người béo, mắt nâu, hóm hỉnh, tóc bạc trắng mặc dù còn trẻ, thông minh, rất bình tĩnh và tháo vát.
Buổi tối trong công viên Schloss Treskow. Trong những căn phòng tối tăm có nhiều đồ sứ, tiếng chuông đồng hồ bính boong. Đại tá Petrov đang ngồi bên bếp lửa, khốn khổ vì đau răng. Qua cửa sổ có thể nghe tiếng đại bác bắn và Katyusha rít lên. Bất thần có tiếng sấm vang trên trời. Bầu trời vàng ánh lửa và có mây. Thời tiết ấm, mưa nhỏ, có mùi hoa tử đinh hương. Trong công viên có 1 cái ao, những bức tượng soi bóng xuống đó. Tôi đang ngồi trên 1 cái ghế bành bên bếp lửa. Chuông đồng hồ vẫn bính boong suốt với giai điệu du dương buồn bã, nghe giống 1 bài thơ.
Trên tay tôi có 1 cuốn sách, in chữ nhỏ, có dòng chữ viết tay run run, có lẽ của 1 người già: "von Treskow". Chắc ông ta từng là chủ nhân nơi đây (**).
1 ông già Đức 61 tuổi có cô vợ 35 tuổi rất đẹp, ông ta là lái buôn ngựa. Họ có 1 con chó bull tên là Dina, "Sie ist ein Fraulein". Chúng tôi được nghe kể rằng binh lính đã lấy đi mọi thứ của họ. Người vợ khóc nức nở nhưng ngay sau đó bình thản nói với chúng tôi rằng mẹ và 3 chị em của cô ta đã chết vì bom Mỹ ở Hanover. Cô ta cũng kể, với sự thích thú rõ ràng, những chuyện ngồi lê đôi mách về đời sống tình dục của Goering, Himmler và Goebbels.
Sáng ra, chúng tôi đi cùng Berzarin và Tham mưu trưởng của ông là trung tướng Bokov tới trung tâm Berlin. Tại đây chúng tôi thấy được những trận bom của người Mỹ và người Anh đã hoàn thành nhiệm vụ tốt thế nào: Tất cả chỉ còn là địa ngục!
Chúng tôi vượt qua sông Spree và bắt gặp hàng nghìn người Berlin trên đường phố. 1 phụ nữ Do Thái và chồng, 1 người Do Thái già, đã bật khóc khi biết được số phận những người bị đưa tới Lublin.
1 quý cô Đức khoác áo lông cừu tỏ ra rất thích tôi, cô nói: "Nhưng chắc anh ko phải 1 chính uỷ Do Thái chứ?"
Trong 1 sở chỉ huy quân đoàn bộ binh (***), chỉ huy là tướng Rosly. Quân đoàn vẫn đang chiến đấu tại trung tâm Berlin. Rosly nuôi 2 con chó (gọi vui là đồng chí), 1 con vẹt, 1 con công, 1 con gà Nhật Bản, tất cả chúng đều đi theo ông mọi nơi mọi lúc. 1 ko khí náo nhiệt trong sở chỉ huy của Rosly, ông nói: "Giờ chúng tôi sợ cả các đơn vị bạn chứ ko chỉ quân địch." Ông vừa nói vừa cười: "Tôi đã được lệnh kéo xác xe tăng ra đường dẫn tới Reichstag và Reichschancellery để chặn các đơn vị bạn. Điều đáng thất vọng nhất ở Berlin này là khi hay tin 1 đơn vị bạn nào đó thành công."
Grossman đã rất quan tâm đến các hoạt động của đất nước thù địch bại trận - cách họ sẵn sàng tuân lệnh các chủ nhân mới, cách các nhóm nhỏ tiếp tục kháng cự, tất cả đều ko giống như ở Liên Xô. Minh hoạ của ông về những người + sản Đức già thường xuyên lặp lại. Khi những Đảng viên này xuất hiện họ mong muốn được Hồng quân chào đón như những người đồng chí, nhưng thay vào đó họ bị khinh rẻ, nếu ko thì cũng bị công khai nghi ngờ. Những công dân Soviet đã ko nhận được chỉ dẫn nào từ những nhà lãnh đạo, họ ko thể hiểu tại sao giai cấp cần lao Đức lại ko chiến đấu chút nào để chống lại bọn Nazi. Mật vụ SMERSh và NKVD thậm chí còn bắt 1 số Đảng viên + sản Đức vì tội gián điệp. Theo quan điểm của những người Stalinist, chỉ nội thực tế là họ đã ko làm du kích chiến đấu chống bọn phát xít đã đủ để nghi ngờ.
(*) Thượng tướng Nikolai Erastovich Berzarin (1904 - 1945).
(**) Gia tộc Tresckow (thêm 1 chữ cái "c") là 1 gia tộc Phổ cổ, thành viên được biết tới nhiều nhất là thiếu tướng Henning von Tresckow (1901 - 1944), người đã bí mật gài 1 quả bom vào máy bay của Hitler ngày 13/3/1943, nhưng nó ko nổ. Tresckow tự sát bằng lựu đạn ngày 21/7/1944. Công viên SchloB Treskow mà Grossman đang trú ngụ rất có thể là SchloB Friedrichsfelde nằm ở khu đông Berlin, tài sản của 1 nhánh vốn là con hoang nhưng giàu hơn nhiều trong gia tộc này, tên viết ko có chữ cái "c". Nhánh gia tộc này kiếm tiền nhờ bán ngựa cho kỵ binh khắp Châu Âu. Munthe von Treskow, chủ nhân cuốn sách mà Grossman đang xem, đã bị lính Soviet tống ra khỏi nhà và theo gia đình kể lại là sau đó chết vì đói.
(***) Đây là Quân đoàn 9 Bộ binh, chỉ huy là trung tướng I. P. Rosly, trực thuộc Tập đoàn quân 5 Xung kích của thượng tướng Berzarin.
1 ngày tại nhiệm sở của Berzarin, nơi Sáng tạo Thế giới. Người Đức, người Đức, toàn là người Đức - phóng viên Burgermeisters, giám đốc sở điện Berlin, sở cấp nước Berlin, thoát nước, công trình ngầm, tàu điện, gas, các chủ nhà máy và đủ loại nhân vật khác. Họ đều mới tiếp nhận vị trí tại nhiệm sở. Phó giám đốc lên giám đốc, lãnh đạo địa phương thành toàn quốc. Tiếng bước chân lạo sạo, tiếng trao đổi xì xào.
1 ông cụ vốn là thợ quét vôi giơ tấm thẻ Đảng (+ sản), ông ta là Đảng viên từ năm 1920. Tuy nhiên điều này ko gây ấn tượng gì lớn, ông được mời ngồi.
Ôi, bản chất con người mới yếu ớt làm sao! Tất cả những quan chức tai to mặt lớn này từng được Hitler nuôi dưỡng đến béo mượt, vậy mà họ đã nhanh chóng và nhiệt thành từ bỏ chế độ của họ, lãnh đạo của họ, Đảng của họ và quay sang chửi bới nó. Tất cả họ đều nói cùng 1 điều: "Sieg!" (Chiến thắng - Maseo), đó là câu khẩu hiệu lúc này.
2/5, ngày Berlin đầu hàng. Thật khó để mô tả nó. Cảm xúc dâng lên cao trào. Lửa và lửa, khói, khói, và khói. Những đám tù binh Đức khổng lồ. Nét mặt chúng đầy vẻ bi kịch, nhiều khuôn mặt lộ rõ nỗi buồn ko chỉ của cá nhân mà của cả 1 dân tộc. Hôm nay là 1 ngày u ám, lạnh lẽo, lất phất mưa và chắc chắn là ngày nước Đức sụp đổ. Trong khói bụi, giữa những đống đổ nát, những đám cháy là hàng trăm xác chết nằm trên các con phố.
Những xác chết bị xe tăng nghiến lên, cuốn lại chỉ còn như những cái ống. Hầu hết chúng vẫn còn nắm chặt lựu đạn hoặc tiểu liên trong tay. Chúng đã chết trong trận chiến, phần lớn đều mặc áo sơ mi nâu, đó là những cán bộ Ctrị của Đảng Quốc xã tham gia bảo vệ những tuyến đường dẫn tới Reichstag và Reichschancellery.
Tù binh bao gồm cảnh sát, cán bộ chính quyền quốc xã, người già và cả học sinh, hầu hết vẫn còn là trẻ con. Nhiều tù binh đi cùng vợ, những phụ nữ trẻ và đẹp. 1 số phụ nữ đang cười, cố làm vui lòng chồng. 1 tên lính trẻ đi cùng 2 con 1 trai 1 gái. 1 tên lính khác ngã xuống và ko thể đứng dậy được, hắn khóc. Những người dân tỏ ra tốt bụng với hắn, khuôn mặt họ lộ vẻ xót thương. Họ đưa cho đám tù binh nước và những khoanh bánh mì họ đang cầm trên tay.
1 bà già chết nửa nằm nửa ngồi trên 1 tấm đệm trước ngưỡng cửa, đầu tựa vào tường. Khuôn mặt bà hiện vẻ cam chịu và buồn bã, bà đã chết trong ngày tai hoạ này. 1 đôi chân trẻ con đi giày và tất nằm trong vũng bùn, chắc 1 mảnh đạn đã cắt nó ra hoặc 1 chiếc xe tăng đã nghiến qua cô bé. (Đó là chân của 1 cô bé)
Sự tĩnh lặng đã trở lại các con phố, các đống đổ nát đang được dọn dẹp. Phụ nữ Đức đang quét vỉa hè và các căn phòng trong nhà bằng chổi xể.
Quân địch đã yêu cầu đầu hàng suốt đêm bằng radio. Viên tướng chỉ huy phòng thủ thành phố đã ra lệnh: "Hỡi các binh sĩ! Hitler, người mà các anh đã tuyên thệ trung thành, đã tự sát!" (*)
Tôi đã được chứng kiến những phát đạn cuối cùng tại Berlin. 1 nhóm SS trong 1 toà nhà bên bờ sông Spree, cách Reichstag ko xa, đã ko chịu đầu hàng. Những khẩu đại pháo nã đạn lửa và đạn xuyên vào toà nhà, mọi thứ đổ sụp thành 1 đống đá vụn và khói đen.
Reichstag, toà nhà khổng lồ đầy quyền lực. Lính tráng đốt 1 đống lửa chào mừng giữa đại sảnh và gõ lưỡi lê vào những vỏ đồ hộp.
Có 1 cuộc trò chuyện gần như vô bổ lưu lại trong trí nhớ của tôi. Đó là câu chuyện với 1 anh đánh xe có cỗ xe ngựa như từ thời trung cổ, anh ta có bộ râu rậm mầu nâu sẫm được uốn vểnh. Anh ta đang đứng cạnh mấy con ngựa ở góc Leipzigerstrasse. Tôi hỏi anh về Berlin, và ko rõ anh có thích thành phố này ko.
"Oh, anh thấy đấy," anh ta nói, "hôm qua là 1 ngày ầm ĩ, có đánh nhau ngay tại con phố này. Đạn pháo Đức nổ suốt, tôi đang đứng bên lũ ngựa thì xà cạp bị lỏng, tôi cúi xuống định quấn lại và 1 mảnh đạn bay vút qua đầu! 1 con ngựa hoảng sợ bỏ chạy mất, nó là 1 con non và khá nghịch. Tôi nghĩ ko biết mình nên làm gì bây giờ, quấn lại xà cạp hay chạy theo con ngựa. Vâng, tôi đã xem qua Berlin! Tôi chạy suốt 2h trên mỗi 1 con phố mà vẫn chưa hết! Vừa đi tôi vừa nghĩ - vậy đấy, đó là Berlin. Chính xác đây là Berlin nhưng cuối cùng tôi cũng bắt lại được con ngựa!"
(*) Tướng Helmuth Weidling, chỉ huy Quân đoàn 56 Thiết giáp, được Hitler chỉ định làm chỉ huy Berlin ngày 23/4 ngay sau khi ra lệnh bắt ông ta vì tội hèn nhát với lý do ko ai hiểu nổi.
Sát phía tây toà nhà Reichstag, Grossman lang thang trong Tiergarten, công viên trung tâm Berlin, nơi mà mọi cây cối đã bị phạt trụi trong trận đánh, mặt đất bị cày xới vì bom đạn. Cây cột lớn mừng chiến thắng Seigessaule, được lính Soviet trong trận đánh gọi là "quý bà cao" vì trên đỉnh cột có bức tượng thiên thần chiến thắng, được dân Berlin gọi là "Elsa vàng". Cái "pháo đài" mà ông đề cập dưới đây là khu chuồng thú lớn đồng thời là tháp pháo phòng ko, 1 công trình khổng lồ bằng xi măng với nhiều pháo đội phòng ko trên nóc, bên trong ẩn núp hàng nghìn người. Đây từng là sở chỉ huy của Goebbels khi hắn nắm giữ chức vụ Uỷ viên hội đồng quốc phòng Đế chế, nhưng hắn đã ko chết ở đây. Goebbels và vợ là Magda đã tự bắn mình trong vườn hoa toà nhà Reichschancellery sau khi Magda đầu độc chết 6 đứa con.
Đài kỷ niệm chiến thắng Siegessaule, những toà nhà và pháo đài khổng lồ và vị trí của lực lượng phòng ko Berlin. Đây là sở chỉ huy bố phòng của các lực lượng phòng thủ dưới quyền Goebbels. Người ta nói hắn đã ra lệnh đánh thuốc độc gia đình mình rồi tự sát. Hôm qua hắn đã tự bắn mình, thân xác hắn vẫn nằm đó, chân vặn vẹo phi tự nhiên, đeo cà vạt trắng.
Chiến thắng bạo tàn. Bên đài kỷ niệm khổng lồ, 1 lễ mừng tự phát đang diễn ra. Những tấm giáp tăng biến mất dưới hàng đống hoa và cờ đỏ. Những nòng pháo cũng nở hoa như 1 thân cây mùa xuân. Mọi người đang nhảy nhót, cười đùa, ca hát. Hàng trăm quả pháo sáng đủ màu được bắn lên trời, mọi người chào đón chiến thắng bằng những loạt tiểu liên, súng trường và súng ngắn. (Sau này tôi được biết nhiều người tham gia buổi chào mừng đó là những xác chết còn sống vì đã uống phải thứ thuốc độc ghê gớm chứa trong các thùng ở nhà máy hoá chất Tiergarten. Thứ thuốc đốc này phát tác 3 ngày sau khi uống và khiến người ta phải chịu 1 cái chết tàn khốc.)
Cổng Brandenburg được phủ 1 lớp gỗ súc và bao cát dày 2 - 3m. Vòm cổng trông như 1 cái khung ảnh, qua đó có thể thấy toàn cảnh Berlin đang bốc cháy. Thực sự tôi chưa bao giờ được xem 1 hình ảnh như vậy dù đã thấy hàng nghìn vụ cháy.
Những người nước ngoài (bị bắt tới lao động khổ sai hoặc là tù binh chiến tranh) đã chịu nhiều đau khổ. Họ vừa đi vừa mắng chửi và đe doạ những tên lính Đức và vẫy mũ với lính Nga. 1 người Pháp trẻ bảo tôi: "Monsieur, tôi yêu quân đội của các anh, đó là lý do tôi thấy khốn khổ cho mình khi nhìn thấy các anh chú ý tới các bà các cô. Điều đó sẽ có hại cho các anh về mặt tổng thể."
Nạn cướp bóc: Những thùng chứa, đống gạch, đồ da, rượu vang, rượu champagne, quần áo - tất cả đều đang được chở trên những xe cộ hoặc trên những đôi vai.
Người Đức: 1 số đặc biệt dễ gần và tử tế, số khác quay đi với vẻ rầu rĩ. Có rất nhiều cô gái trẻ đang khóc. Hình như họ đã phải trải qua những sự khó chịu với cánh lính tráng quân ta.
Đây là nước Đức, chi tiết hơn là Berlin, các chiến sĩ ta thực sự bắt đầu tự hỏi ko hiểu sao bọn Đức lại phải thình lình tấn công chúng ta như vậy? Tại sao người Đức lại cần phải tiến hành cuộc chiến khủng khiếp và bất công này? Hàng triệu binh sĩ ta giờ đã được thấy những nông trại giàu có ở Đông Phổ, hoạt động nông nghiệp được tổ chức cao, kho lúa xây xi măng, những phòng rộng trải thảm và tủ đầy quần áo.
Hàng triệu chiến sĩ ta đã thấy những con đường tuyệt đẹp dù chỉ là nối làng này với làng khác, những xa lộ Đức ... Lính ta đã thấy những căn nhà 2 tầng ở ngoại ô có đủ điện, gas, nhà tắm và khu vườn xinh xắn. Lính ta đã thấy villa của đám tư sản giàu có Berlin, những lâu đài, điền trang, biệt thự xa xỉ ko thể tin nổi. Vậy là hàng nghìn chiến sĩ ta đã phải tức giận đặt câu hỏi này khi nhìn thấy những gì xung quanh: "Thế này mà tại sao chúng lại phải đến nước ta? Chúng còn muốn gì nữa?"
Hầu hết lính tráng đều đến tụ tập tại Reichstag vào ngày chiến thắng. Chỉ có 1 số ít mà phần lớn là sĩ quan xuất hiện quanh Reichschancellery, họ được cho phép vào tầng trệt nhưng các tầng trên và hầm bị các đặc vụ SMERSh dưới quyền tướng Vadis ngăn lại, họ đang tìm kiếm xác Hitler. Grossman đi cùng Efim Gekhman kiếm các kỷ vật của bọn Nazi. Theo Ortenberg, Grossman kiếm được kỷ vật cuối cùng cho bộ sưu tập của mình vào ngày 2/5/1945 tại Berlin. Grossman và Gekhman đã vào nhiệm sở của Hitler buổi sáng, mở xem 1 bản vẽ trên bàn và thấy bên trong có những con dấu ghi "Quốc trưởng đã xác nhận!" hay "Quốc trưởng đã chấp thuận", v.v... Grossman lấy 1 số con dấu đó và giờ chúng đang được lưu giữ cùng các bài báo của ông.
Toà nhà mới Reichschancellery. Nó là 1 đống đổ nát khổng lồ tượng trưng cho 1 chế độ, 1 tư tưởng, 1 kế hoạch, mọi thứ, tất tần tật. Hitler kaputt ...
Nhiệm sở của Hitler. Phòng tiếp tân. Trong phòng chờ rất lớn có 1 người Kazakh trẻ, da sẫm và gò má cao, đang tập đi xe đạp, ngã lên ngã xuống. Ghế và bàn làm việc của Hitler.
1 quả địa cầu kim loại khổng lồ bẹp dúm, dính đầy mẩu gỗ nằm trên thảm. Mọi thứ lộn tùng phèo. Thật là lộn xộn. Các kỷ vật, sách vở có dòng đề tặng của Quốc trưởng, con dấu, v.v..
Grossman cũng tới xem vườn thú Berlin toạ lạc tại góc tây nam Tiergarten.
Những con hổ và sư tử đói khát ... đang cố bắt đám chim sẻ và chuột chạy nhốn nháo trong chuồng.
Vườn Bách Thú. Đã có 1 trận chiến tại đây. Những khu chuồng tan hoang. Xác khỉ, chim nhiệt đới, gấu. Trong hòn đảo dành cho khỉ đầu chó, lũ khỉ nhỏ vẫn đang ôm xác mẹ bằng những cánh tay bé tí.
Nói chuyện với 1 ông cụ từng là người trông coi lũ khỉ trong 37 năm. Có 1 cái xác gorrilla trong chuồng.
"Nó là 1 giống thú dữ tợn àh?" Tôi hỏi.
"Ko. Nó chỉ hay gào lên thôi. Con người đáng sợ hơn nhiều," ông cụ trả lời.
Trên 1 chiếc ghế dài, 1 lính Đức bị thương đang ôm chặt 1 cô y tá. Họ ko nhìn ai. Khi tôi đi qua chỗ đó 1h sau, họ vẫn ngồi nguyên chỗ cũ. Thế giới xung quanh họ ko tồn tại, họ đang hạnh phúc.
Grossman quay lại Moscow đầu tháng 6 và ở ẩn trong 1 nhà nghỉ nông thôn. Đầu tiên ông ko thể viết gì. Ông sụp đổ vì căng thẳng thần kinh, 1 phản ứng thường gặp giống như rất nhiều người khác trở về từ cuộc chiến. Nhưng sau đó, với chế độ nghỉ ngơi, ko khí trong lành, câu cá và đi bộ, ông đã cảm thấy lại sẵn sàng bắt đầu công việc mà ông tự hứa với mình - tôn vinh chủ nghĩa anh hùng của những chiến sĩ Hồng quân và tưởng nhớ vô số nạn nhân trong cuộc xâm lược của bọn Nazi.
LỜI BẠT
SỰ DỐI TRÁ CỦA CHIẾN THẮNG
Niềm tin của Vasily Grossman vào “sự thật trần trụi của chiến tranh” bị giới chức Soviet từ chối ko thương tiếc, đặc biệt khi họ muốn ém nhẹm thông tin về các vụ thảm sát người Do Thái (Holocaust). Đầu tiên là việc phủ nhận sự tồn tại của chủ nghĩa bài Do Thái trong xã hội Soviet. Grossman phải làm ra vẻ hòa hợp với Sholokhov, người đã xúc phạm cả ông lẫn Ehrenburg khi nêu 2 ông như những ví dụ điển hình của các tư tưởng phản động còn sót lại từ trước cách mạng. Sau chiến tranh, ông sớm phát hiện ra rằng bản thân những người Stalinist còn bài Do Thái hơn nhiều so với tưởng tượng của ông. Nhiều năm sau đó, khi viết cuốn “Cuộc đời và Số phận”, ông đã bộc lộ điều này công khai khi mô tả cuộc chiến nhưng cuốn sách đã ra đời quá sớm. Mặc dù có những cảnh báo nhưng tư tưởng bài Do Thái trong hệ thống chính quyền Soviet đã ko bộc lộc 1 cách rõ ràng cho đến tận năm 1948. Nó bộc phát 1 cách đáng sợ năm 1952 trong chiến dịch “bài trừ chủ nghĩa quốc tế” của Stalin và việc tung ra giả thuyết về âm mưu của các bác sĩ Do Thái định sát hại các nhà lãnh đạo Soviet. Tuy chưa phải người bài Do Thái thực sự nhưng Stalin có những tư tưởng ko khác mấy bọn Nazi, xuất phát từ tư tưởng bài ngoại hơn là phân biệt chủng tộc.
Ủy ban người Do Thái chống phát xít được thành lập tháng 4/1942 theo yêu cầu từ 1 năm trước đó của “những người anh em Do thái” trên toàn thế giới nhằm giúp đỡ nhau trong cuộc chiến, lúc này nổi lên như 1 đối tượng nghi ngờ của Stalin. Trong cuộc Đại thanh trừng những năm 1937 – 1938, chỉ 1 dấu hiệu mơ hồ về việc có liên lạc với người ngoại quốc đã đủ để kết tội vô số nạn nhân. Chỉ đến những tháng đầu của cuộc chiến, khi đất nước đối mặt với mối đe dọa sống còn, Stalin mới suy nghĩ lại về ý tưởng để người Do Thái Liên Xô thiết lập quan hệ trực tiếp với người Do Thái tại Mỹ và Anh. Tuy thế đề nghị thành lập các Lữ đoàn quốc tế của những người nước ngoài, đặc biệt là Mỹ, trong đó người Do Thái tập trung thành các đơn vị độc lập chiến đấu trong thành phần Hồng quân, đã bị chính thức bác bỏ. Có lẽ dấu hiệu rõ ràng nhất là ngay sau khi bảo vệ thành công Moscow tháng 12/1941, 2 nhân vật chính yếu đưa ra đề nghị trên là Henryk Erlich và Viktor Alter, 2 người Do Thái Ba Lan, đã bị bắt. Erlich sau đó tự sát trong tù còn Alter bị xử tử.
Nhà cầm quyền Soviet ko tỏ ra phản đối Ủy ban người Do thái chống phát xít trên mặt trận tuyên truyền khi Thỏa ước Lend – Lease với người Mỹ vẫn còn rất quan trọng với sự sống còn của đất nước. Tuy nhiên hoạt động của Ủy ban ngày 1 mở rộng và khiến họ xung đột với chủ trương của những người Stalinist muốn che đậy các vụ Holocaust. 1 ý tưởng khác xuất phát từ Mỹ mà trong nhóm đề xướng có cả Albert Einstein, 1 người Do Thái Mỹ nổi tiếng, là lập ra cuốn Sách Đen. Ý tưởng này thậm chí còn bị những người Stalinist phản đối nhiều hơn, ngay cả khi Thông tấn xã Soviet đã chấp thuận đưa vào kế hoạch xuất bản năm 1943. Grossman, 1 người Nga yêu nước và Ehrenburg, 1 người gốc Pháp đều được xem là những người Do Thái dù cả 2 vốn ko bao giờ quan tâm đến những nghi lễ Do Thái giáo Chính thống. Giờ đây họ gắn mình với số phận của những người Do Thái trên khắp Châu Âu. Cũng trong mùa hè năm 1943, khi xu thế chiến cuộc đã chuyển hướng 1 cách quyết định sang bất lợi cho phe phát xít, cả Ehrenburg và Grossman đều phát hiện ra rằng các cơ quan xuất bản chính đã cắt bỏ hầu hết các bài viết của 2 ông về đề tài tội ác chống người Do Thái của bọn Nazi. Chỉ còn lại 1 số nhỏ nhà báo người Do thái, khoảng 20 người trên toàn Liên Xô, là chấp nhận đề tài này, họ tập trung nỗ lực vào dự án xuất bản cuốn Sách Đen (*). Sau này Grossman có đề nghị đích thân Konstantin Simonov tham gia viết 1 chương về Majdanek nhưng ông này từ chối, lấy lý do là quá bận, rõ ràng ông ta ko muốn hứng chịu rủi ro của việc gây thù chuốc oán với giới chức cầm quyền.
Cuối năm 1944, giữa Ehrenburg và các thành viên khác trong nhóm văn sĩ của Ủy ban người Do Thái chống phát xít phát sinh mâu thuẫn, vì vậy Grossman phải lãnh trách nhiệm biên tập cuốn sách. Tuy nhiên tháng 2/1945, Thông tấn xã Liên Xô phê phán việc nhấn mạnh các hành động của những kẻ phản bội tại các vùng tạm chiếm khi cộng tác với bọn Đức thảm sát người Do Thái. Đây chính là điểm đã làm Grossman phản đối mạnh mẽ con người nhìn xa trông rộng Ehrenburg. Đối với nhà cầm quyền, mục đích duy nhất của cuốn Sách Đen là 1 bằng chứng trong các phiên tòa diễn ra liên tục để xét xử bọn phát xít Đức.
(*) Để biết chi tiết về những vấn đề gặp phải trong quá trình thực hiện cuốn Sách Đen có thể xem các ấn bản của Garrard & Garrard trang 199 – 221, của Rubenstein trang 212 – 217 và chi tiết nhất là của Rubeinstein & Naumov. Bản tiếng Anh của cuốn Sách Đen do NXB Vad Yashem ấn hành năm 1981.
Sau chiến tranh, Uỷ Ban Do Thái chống phát xít nhận ra rằng ko thể xin được giấy phép xuất bản cuốn Sách Đen từ giới chức cầm quyền. Tháng 11/1946, Ehrenburg, Grossman và người đứng đầu Uỷ ban là Solomon Mikhoels đã đồng gửi 1 lá đơn thỉnh nguyện tới Andrei Zhdanov, Bí thư Dân Uỷ Trung ương (*).
Mãi ko nhận được câu trả lời nào. Cuối cùng, sau 11 tháng tức tháng 10/1947, Uỷ ban mới được thông báo rằng cuốn sách mắc "những sai lầm Ctrị nghiêm trọng" và bị cấm xuất bản. Chiến Tranh Lạnh vừa mới bắt đầu tháng 9 năm đó, và Uỷ ban Do thái chống phát xít trở thành đối tượng rất đáng ngờ vì có quan hệ với nước Mỹ, 2 tháng sau nó bị giải tán, các nhà văn tham gia viết cuốn Sách Đen tứ tán mỗi người 1 nơi. Tháng 1/1948, Solomon Mikhoels bị 1 chiếc xe tải nghiền nát ở Minsk, vụ này sau đó được chứng minh là 1 hành động của KGB nhằm loại trừ ông. Grossman chính là người đã đưa Mikhoels ra ga trong chuyến đi định mệnh này nên chắc cũng có nhiều nghi ngờ khi nghe được tin dữ, phương pháp ám sát quá thô thiển để có thể tin là 1 vụ tai nạn bình thường.
Trong các năm 1945 và 1946, sự nghiệp văn chương của Grossman vẫn tiếp tục tiến triển ngoại trừ cuốn Sách Đen. 1 số bài viết của ông đăng trên tờ Krasnaya Zvezda được tập hợp và tái bản thành 1 cuốn sách nhỏ mang tên "Gody Voiny" (Những năm tháng chiến tranh), cuốn sách sau đó còn được xuất bản bằng nhiều thứ tiếng. Bản mới của cuốn "Nhân dân bất diệt" cũng được in và thậm chí chuyển thể thành kịch. Tuy nhiên những thành công này ko kéo dài quá 1 năm. Tháng 8/1946 bắt đầu thời kỳ trấn áp văn hoá và ý thức hệ do Andrei Zhdanov khởi sướng, nó được đặt tên là Zhdanovschina bắt chước theo tên gọi cuộc Đại Thanh trừng là Yezhovschina. Kể cả ko tính tới những việc đã làm cho cuốn Sách Đen, 1 nhà văn chân thực như Grossman cũng vẫn bị buộc phải đối mặt với quãng thời gian hậu chiến khó khăn. Tháng 9, vở kịch "Nếu chúng ta tin vào Pythagor" của ông đã bị tờ Pravda chỉ trích 1 cách ác ý. Sau đó là những lời cạnh khoé khác về các tác phẩm của ông viết trong chiến tranh, tuy nhiên điểm chính yếu khiến cho các nhà chức trách ko ưa ông vẫn là cuốn Sách Đen.
Đòn tấn công tiếp theo vào Grossman nằm trong chiến dịch "bài trừ chủ nghĩa quốc tế" của những người Stalinist, nó bắt đầu tháng 11/1948 với việc giải tán Uỷ ban Do thái chống phát xít. (Theo logic quái gở của những người Stalinist, việc này ít nhiều trùng hợp với việc Liên Xô công nhận Nhà nước Do thái, 1 cuộc phân chia hoàn toàn chỉ nhằm mục đích làm hỏng kế hoạch của nước Anh). 3 tháng sau, tháng 1/1949, truyền thông Soviet bắt đầu cuộc tổng tấn công "bài trừ chủ nghĩa quốc tế" theo lệnh của Kremlin. 15 thành viên Uỷ ban bị bắt, bị thẩm vấn, tra tấn và cuối cùng bị xét xử vào tháng 5/1952. Các phiên toà đều được xử kín, 13 bị cáo bị xử tử vào tháng 8. Tháng 1/1953, 1 nhóm bác sĩ hầu hết là người Do Thái bị buộc tội là âm mưu sát hại các nhà lãnh đạo Soviet. Chiến dịch bài Do Thái trắng trợn này chỉ chấm dứt sau cái chết của Stalin vào tháng 3.
Viktor Komarev, Phó Giám đốc cơ quan điều tra thuộc MGB đã thẩm vấn các thành viên Uỷ ban Do thái chống phát xít và khoác lác trong 1 bức thư gửi Stalin rằng "tôi căm ghét những kẻ thù của nhân dân này biết bao". Ông ta khoe khoang về những việc làm tàn bạo của mình và sự sợ hãi của các nạn nhân.
"Tôi đặc biệt căm ghét và đối xử ko thương xót với những tên quốc gia Do thái, những kẻ mà tôi xem như kẻ thù nguy hiểm và hung ác nhất. Vì lòng căm thù đối với chúng mà tôi tự cho mình là người bài Do Thái ko chỉ với những bị cáo này mà cả với các cựu nhân viên MGB người Do Thái." 1 trong các bị cáo, Boris Shimeliovich, đã bị tra tấn đến mức phải ra toà trên cáng.
(*) Andrei Aleksandrovich Zhdanov (1896 - 1948), sinh tại Mariupol, gia nhập Đảng Bolshevik năm 1915 và trở thành đệ tử trung thành của Stalin. Sau vụ ám sát Sergei Kirov năm 1934, Zhdanov trở thành thị trưởng Leningrad. Ông đóng vai trò quan trọng trong các cuộc thanh trừng và lãnh đạo cuộc phòng thủ Leningrad năm 1941. Sau đó ông trở lại với vai trò cũ là phụ trách an ninh văn hoá cho Stalin, trông nom hoạt động của Thông tấn xã Liên Xô và sau đó là Cục thông tin Quốc tế CS từ năm 1947. Học thuyết của ông được biết đến dưới cái tên "chủ nghĩa Zhdanovism" lấy căn bản là khái niệm partiynost, hay "tính Đảng", phải là 1 kim chỉ nam cho các văn nghệ sĩ. Sau này giới chức Soviet có cho rằng cái chết của ông năm 1948 là 1 phần vụ "âm mưu của các bác sĩ" nhưng cũng có thể chính Stalin, do lo ngại sự gia tăng quyền lực của nhóm quan chức gốc Leningrad dưới trướng Zhdanov, đã nhúng tay vào cái chết phi tự nhiên này.
Vasily Grossman và Ilya Ehrenburg đã cực kỳ may mắn khi ko bị liệt vào số những kẻ hợp tác với Uỷ ban Do thái chống phát xít bị bắt đợt đầu. Họ bị triệu đến thẩm vấn tháng 3/1952 để chuẩn bị cho phiên xét xử nhưng được để ngồi 1 mình tự viết bản cung. Cuốn tiểu thuyết đầu tiên của Grossman về Stalingrad "Vì Chính Nghĩa" đã được xuất bản dài kỳ trong năm đó sau khi ông bị buộc phải sửa đổi nhiều đoạn liên quan đến Ctrị. Cuốn tiểu thuyết được đề cử Giải thưởng Stalin nhưng ngay sau đó Grossman đã bị phê phán dữ dội.
Những tay bồi bút của Đảng đã phát hoảng khi nhận ra Grossman viết cuốn tiểu thuyết về trận Stalingrad mà ko hề nhắc tới Stalin. Danh sách những điểm đáng phê bình ngày càng mở rộng. Ông bị cho là đã làm giảm thắng lợi và vai trò của Đảng CS trong chiến thắng. Grossman đã buộc phải viết 1 bức thư xám hối nhưng ông chỉ thoát khỏi trại cải tạo Gulag nhờ cái chết của Stalin tháng 3/1953.
Mặc dù ghê tởm những tín điều Stalinist mà vì nó ông phải liên tục dối trá và phản bội chính mình, Grossman vẫn ko bao giờ đánh mất niềm tin vào những người lính Nga bình thường và thành công to lớn của cuộc Chiến tranh Vệ Quốc Vĩ đại. Con gái ông kể lại trong hồi ký ông đã thúc giục mọi người trong gia đình hát những bài hát chiến tranh trong nhà mình.
Trong căn phòng trống lớn, trời đang chạng vạng, ko hiểu vì sắp tối hay sắp có mưa, có 3 người chúng tôi: bố, em cùng cha khác mẹ Fedya và tôi ... chúng tôi đang hát vài bài hát thời chiến. Cha tôi bắt nhịp bằng giọng vang và ồm ồm, đôi tai kém thẩm âm của ông ko quan tâm nhiều đến chuyện đó, những câu hát rất quen thuộc với chúng tôi:
Chiếc máy bay đang quần lượn quanh quanh
Nó đang gầm rú, lao vào lũ quỹ trên mặt đất ... (*)
Bất ngờ cha tôi đứng dậy, Fedka và tôi cũng đứng lên. Cha tôi khom mình, tay để 2 bên như trong 1 cuộc duyệt binh, mặt trang nghiêm.
Tiến lên đất nước vĩ đại
Tiến lên trong cuộc chiến sống còn
Trước đám mây đen phát xít
Trước lũ hung tàn đáng nguyền rủa
Cha tôi coi việc hát này như 1 nghi lễ: ông nói rất nhiều và rất thành kính ... Ông lúc nào cũng đứng khi hát.
Grossman vẫn còn hứng thú với những câu hỏi về lòng dũng cảm và tính hèn nhát. Con gái ông ghi lại 1 cuộc nói chuyện trong nhà với vài khách khứa, câu chuyện xoay sang chủ đề các hoạt động trong chiến tranh. 1 người nói khi ai đó có những tình cảm mạnh mẽ như yêu nước hoặc tức giận, sự sợ hãi sẽ biến mất. "Grossman trả lời rằng điều đó ko đúng. "Chỉ giống như là có 2 kiểu dũng cảm thôi, tôi nghĩ anh cần phân biệt 2 kiểu sợ hãi khác nhau - nỗi sợ vật chất ví dụ như sợ chết, và nỗi sợ tinh thần ví dụ như sợ bị người khác ghét bỏ trên mặt trận. Như trường hợp Tvardovsky bẩm sinh là 1 người cực kỳ dũng cảm, còn những người khác như Simonov chẳng hạn thì ko sở hữu tính cách đó vì anh ta vốn là thường dân, mặc dù vậy Kostya Simonov vẫn tỏ ra vô cùng dũng cảm trong chiến tranh.""
Grossman ko hoàn toàn bị bỏ rơi về mặt Ctrị, thậm chí trong những lúc khó khăn nhất ông vẫn nhận được sự ủng hộ từ 1 số tướng lĩnh Stalingrad. Rodimtsev, người ông luôn tôn kính, đã đứng bên ông khi cuốn "Vì Chính Nghĩa" bị công kích, đó là 1 hành động thực sự dũng cảm. Năm 1955, sau cái chết của Stalin, khi mọi sự đã ko còn quá tệ với Grossman, ông đã gặp 1 người bạn chí cốt của Stalin là Nguyên soái Voroshilov, người đã cố thuyết phục ông vào Đảng nhưng Grossman khăng khăng từ chối. "Ờ, với tôi vẫn rõ ràng thôi," Voroshilov trả lời với vẻ tốt bụng, "anh là 1 người Bolshevik ngoài Đảng."
Năm 1954, cuốn "Vì Chính Nghĩa" được tái bản, lần này dưới dạng sách và lại 1 lần nữa được ngợi ca. Trong thời gian nghỉ viết những năm 50s, Grossman vẫn tiếp tục làm nhiều việc để chuẩn bị cho kiệt tác của mình, cuốn "Cuộc đời và Số phận". Cuốn sách được kính cẩn đề tặng Tolstoy, tác giả cuốn "Chiến tranh và Hoà bình", và cũng là 1 thiên anh hùng ca, nhưng ở đây trung tâm là trận Stalingrad. 1 trong những khác biệt căn bản giữa 2 cuốn tiểu thuyết là cách Grossman đặt vấn đề với những câu chuyện và nhân vật gần gũi với ông. Thực tế cuốn sách hầu hết lấy chất liệu từ đời thực nhưng vẫn ko làm mất đi tính tiểu thuyết. Ngược lại, những chất liệu thực tế làm cho cuốn sách có sức hấp dẫn lớn.
Grossman đã tưởng rằng dưới thời Nikita Khrushchev, cựu Chính uỷ Stalingrad và là người phê phán Stalin tháng 2/1956 tại Đại hội Đảng 20, sự thật cuối cùng cũng đã có thể nói ra. Nhưng sự thiếu óc xét đoán Ctrị đã làm hại Grossman. Ông đã ko nhận thấy rằng sự tương đồng ngấm ngầm giữa Nazism và Stalinism trong cuốn sách của ông vẫn là rất khó nghe. Huyền thoại về chủ nghĩa anh hùng trong cuộc Chiến tranh Vệ Quốc vĩ đại đã quá ăn sâu bén rễ. Ông chỉ nhận ra đầy đủ sự thật khi chứng kiến số phận của cuộc nổi dậy tại Hungary năm 1956, nó đã bị tướng Babadzhanyan, người anh hùng trong cuốn "Nhân dân bất diệt" của ông, nghiền nát ko thương tiếc.
Grossman hoàn thành cuốn "Cuộc đời và Số phận" năm 1960 và đưa đi đánh máy. Những người biên tập làm ra vẻ bất tài và lười biếng nhưng thực ra là họ sợ hãi vì những gì viết trong tác phẩm. Việc cấp phép xuất bản bị đá lên cấp trên và ngày 14/2/1961, 3 sĩ quan cao cấp KGB đã tới tịch thu tất cả các bản đánh máy. Họ lục soát căn hộ của cả Grossman lẫn những người đánh máy cho ông, lấy đi các bản chép tay và cả giấy than cũng như những băng chữ trên máy đánh chữ. Bản thảo cuốn sách được chuyển tới trưởng ban tư tưởng Đảng CS Mikhail Suslov, nhà lãnh đạo đầy quyền lực của Ban Văn hoá Uỷ ban TW (**). Suslov tuyên án cuốn sách sẽ ko được xuất bản trong ít nhất 200 năm nữa, đây cũng chính là 1 lời khẳng định rõ ràng về tầm quan trọng của cuốn sách.
Tiếp theo là 1 sự tàn phá toàn diện, các cuốn sách trước đây của Grossman bị ngừng lưu hành. Ông rơi vào cảnh cơ hàn và chỉ còn lại 1 số ít bạn bè sẵn sàng chia sẻ rủi ro với ông, ko lâu sau ông bị phát hiện ung thư dạ dày. Grossman mất vào mùa hè năm 1964, cho đến khi chết ông vẫn nghĩ rằng các tác phẩm vĩ đại của mình sẽ bị cấm xuất bản vĩnh viễn. Ehrenburg đề nghị đưa các tác phẩm của ông ra trước 1 uỷ ban đánh giá nhưng bị Hội Nhà văn từ chối. Trong con mắt của giới chức cầm quyền Soviet, Vasily Grossman đã hoàn toàn ko còn sinh mạng Ctrị.
Tuy nhiên, Grossman vẫn còn 1 bản thảo đánh máy cuốn sách gửi nhờ 1 người bạn. Người bạn đó đã bỏ bản thảo của ông vào 1 cái túi vải bạt và bỏ quên nó khi treo trên móc dưới 1 cái áo khoác trong nhà nghỉ nông thôn của ông ta. Sau này bản thảo đó mới được tìm thấy và copy thành microfilm nhờ công của Andrei Sakharov, 1 nhà vật lý vĩ đại và 1 người bất đồng chính kiến. Vladimir Voinovich, tiểu thuyết gia trào phúng, tác giả cuốn "Binh nhì Chonkin" (1 tác phẩm về Hồng quân tương tự cuốn "Chú lính Schwejk tốt bụng"), đã bí mật chuyển bản microfilm khỏi Liên Xô, tới Thuỵ Sĩ (***). Cuốn "Cuộc đời và Số phận" đã được xuất bản tại Thuỵ Sĩ và nhiều nước trên thế giới. Nó chỉ xuất hiện tại Nga sau khi chủ nghĩa CS sụp đổ. Lời hứa với mẹ mà Grossman chưa bao giờ nói được với bà đã hoàn thành. Bà đã sống lại trong cuốn tiểu thuyết của ông với nhân vật Anna Shtrum. Bản thân Grosman đã bị cuốn vào 1 thế kỷ chó sói nhưng tình người và lòng can đảm của ông vẫn sống mãi trong các tác phẩm.
(*) Grossman viết bài hát về những phi công Soviet anh hùng này khi đến thăm trung đoàn ko quân của Vasily Stalin, con trai nhà độc tài, gần Stalingrad vào đầu mùa thu năm 1942.
(*) Mikhail Suslov (1902 - 1982) Uỷ viên TW Soviet phụ trách tư tưởng, từng tham gia giám sát các cuộc thanh trừng thời năm 1937 - 1938 tại Ukraina và Ural. Trong những năm 1944 - 1945 ông ta trực tiếp tham gia các chiến dịch hành quyết và trục xuất tàn bạo đối với các phần tử dân tộc chủ nghĩa trong các dân tộc thiểu số Liên Xô do người Đức chỉ huy tại các vùng tạm chiếm.
(***) Vladimir Nikolayevich Voinovich, sinh năm 1932, bắt đầu làm thơ khi còn trong quân đội Soviet từ 1950 - 1955. Sau đó ông chuyển sang văn xuôi và trở thành 1 người bất đồng chính kiến. Cuốn sách nổi tiếng nhất của ông là "Cuộc đời và những chuyến phiêu lưu của binh nhì Ivan Chonkin" đã khiến ông bị khai trừ khỏi Hội Nhà văn năm 1974. Ông vượt biên năm 1980 và bị Brezhnev tước quyền công dân.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Paul Adair, "Hitler''s Greatest Defeat - The Collapse of Army Group Centre, June 1944" (Thất bại lớn nhất của Hitler - Sự sụp đổ của Cụm Tập đoàn quân Trung tâm, tháng 6/1944), London, 1994.
Paul Addison và Angus Calder, "Time to Kill, The Soldier''s Experience of War 1939 - 1945" (Thời chết chóc, kinh nghiệm người lính trong chiến tranh 1939 - 1945), London, 1997.
Antony Beevor, "Stalingrad", London, 1998.
Antony Beevor, "Berlin - The Downfall, 1945" (Berlin sụp đổ, 1945), London, 2002.
Anatoly Bocharov, "Vasily Grossman, zhizn, tvorchestvo, sudba" (Vasily Grosman, cuộc đời, sự nghiệp, số phận), Moscow, 1990.
Vassily I. Chuikov, "The Beginning of the Road" (Sự bắt đầu của 1 con đường), London, 1963.
Vassily I. Chuikov, "The End of the Third Reich" (Sự kết thúc của Đế chế thứ 3), London, 1967.
Norman Davies, "Rising ''44" (Cuộc nổi dậy năm 44), London, 2003.
Ilya Ehrenburg, "Lyudi. Gody. Zhizn" (Con người, năm tháng, cuộc đời) tập 2, Moscow, 1990.
Frank Ellis, "Vasily Grossman, The Genesis and Evolution of a Russian Heretic" (Vasily Grossman, sự khởi đầu và phát triển của 1 kẻ dị giáo Nga), Oxford, 2004.
John Erickson, "The Road to Stalingrad" (Đường tới Stalingrad), London, 1975.
John Erickson, "The Road to Berlin" (Đường tới Berlin), London, 1999.
John Garrard và Carol Garrard, "The Bones of Berdichev, The Life and Fate of Vasily Grossman" (Những nắm xương tàn ở Berdichev, cuộc đời và số phận của Vasily Grossman), New York, 1996.
David M. Glantz và Jonathan House, "When Titans Clashed, How the Red Army Stopped Hitler" (Cuộc chiến giữa những người khổng lồ, cách Hồng quân chặn đứng Hitler), Kansas, 1995.
Vasily Grossman, "V gorode Berdicheve" (Ở thị trấn Berdichev), Moscow, 1934.
Vasily Grossman, "Gliukauf!" (Chúc may mắn!), Moscow, 1934.
Vasily Grossman, "Stepan Kolchugin", Moscow, 1937 - 1940.
Vasily Grossman, "Narod Bessmerten" (Nhân dân bất diệt), Moscow, 1942 và 1962.
Vasily Grossman, "Esli verit'' pitagoreitsam" (Nếu chúng ta tin vào Pythagore), Moscow, 1946.
Vasily Grossman, "Za pravoye delo" (Vì Chính nghĩa), Moscow, 1952.
Vasily Grossman, "Vsyo techyot" (Mãi nổi trôi), New York, 1972.
Vasily Grossman, "Tovarishchi" (Đồng chí), trong tuyển tập "Zhurnalisty na voine" (Nhà văn chiến tranh) tập 2, Moscow, 1974.
Vasily Grossman, "Zhizu i sudba" (Cuộc đời và số phận), Geneva, 1981 và 1985.
Vasily Grossman, "Gody voiny" (Những năm tháng chiến tranh), Moscow, 1989.
Fyodor Guber, "Pamyat i pisma", Daugava, 1990.
Raul Hilberg, "The Destruction of the European Jews" (Cuộc huỷ diệt người Do thái châu Âu), New York, 1985.
Simon Markish, "Le cas Grossman", Paris, 1983.
Catherine Merridale, "Night of Stone" (Đêm của đá), London, 2000.
D. I. Ortenberg, "Vremya ne vlastno" (Thời gian ko có quyền), Moscow, 1979.
D. I. Ortenberg, "God 1943" (Năm 1942), Moscow, 1982.
D. I. Ortenberg, "Iyun - Dekabr Sorok pervogo" (Tháng 6 - 12/1941), Moscow, 1984.
D. I. Ortenberg, "Sorok trety" (1943), Moscow, 1991.
Richard Overy, "Russia''s War" (Cuộc chiến của nước Nga), London, 1998.
Donald Rayfield, "Stalin and his Hangmen" (Stalin và những tên đao phủ của ông), London, 2004.
Joshua Rubenstein, "Tangled Loyalties - the Life and Times of Ilya Ehrenburg" (Những niềm tin phức tạp - Cuộc đời và những sự nghiệp của Ilya Ehrenburg), New York, 1996.
Joshua Rubenstein và Vladmir P. Naumov, "Stalin''s Secret Pogrom, The Postwar Inquisition of the Jewish Anti - Fascist Commitee" (Cuộc tàn sát bí mật người Do thái của Stalin, cuộc điều tra thời hậu chiến của Uỷ ban người Do thái chống phát xít), New Haven, 1996.
Simon Sebag Montefiore, "Stalin: the Court of the Red Tsar" (Stalin: triều đại của Sa hoàng Đỏ), London, 2004.
Konstantin Simonov, "Days and Nights" (Ngày và đêm), New York, 1945.
Tsvetan Todorov, "Mémoires du Mal, Tentations du Bien", Paris, 2000.
P. I. Troyanovsky, "Navosmi frontakh" (Tại 8 Phương diện quân), Moscow, 1982.
Dmitri Volkogonov, "Stalin: Triumph and Tragedy" (Stalin: Thành công và bi kịch), London, 1991.
A. I. Yeremenko, "Stalingrad - Zapiski komandujuscego frontom", Moscow, 1961.
V. I. Zaitsev, "Za Volgoi Zemli dlya nas ne bylo" (Vì chúng ta ko còn chỗ nào lùi, phía sau là Volga), Los Angeles, 1973.
Tuyển tập "Zhurnalisty na voine" (Nhà văn chiến tranh), Moscow, 1966.
HẾT
................
................
In order to avoid copyright disputes, this page is only a partial summary.
To fulfill the demand for quickly locating and searching documents.
It is intelligent file search solution for home and business.